hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng
Giáo án Ngữ văn 10 tiết 42: Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng ( Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng) Lí Bạch. 2 trang | Lượt xem: 347 | Lượt tải: 0. Giáo án Ngữ văn lớp 10 tuần 23: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia (Thân Nhân Trung)
21 Giáo án Ngữ văn lớp 10 - Tiết 44: Hoàng hạc lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng lăng mới nhất administrator 5 phút ago Không có phản hồi Facebook
Tiễn Mạnh Hạo Nhiên ở Hoàng Hạc Lâu đi Quảng Lăng Phía tây bạn biệt Hạc Lâu Tháng ba trẩy xuống Dương Châu thuận dòng. Cánh buồm bóng hút màu không, Trông xa trắng xóa nước sông bên trời. Trần Trọng Kim dịch Bình luận và vạch cái "hay" của Đường thi thì vô tận, chưa kể những thêu dệt quá lố của một số phê bình gia.
(Năm 726) Hoàng Hạc lâu ở tây nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Quảng Lăng nay thuộc huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô. Bài thơ này được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006, SGK Ngữ văn 10 giai đoạn từ 2007. [1] Tức là Quảng Lăng.
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là một bài thơ thành công và thể hiện khá tập trung những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Lí Bạch. Bài thơ khai thác đề tài tình bạn, đề tài chia li giữa những người tri âm tri kỉ - một đề tài rất quen
Frühstückstreffen Für Frauen In Deutschland Ev. Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 21/06/2013, 0125 Ngày tháng năm Tiết 44 Đọc văn Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Lý Bạch A. Mục đích yêu cầu - Hiểu đợc tình cảm chân thành sâu nặng của nhà thơ Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. Qua đó thấy đợc tình cảm thắm thiết giữa hai nhà thơ nổếng của Trung Quốc thời Đờng - Hiểu đợc một số đặc điểm cơ bản của thơ Đờng ý tại ngôn ngoại thể hiện qua ngôn ngữ hàm xúc, cô đọng đa nghĩa, bút pháp tả cảnh ngụ tình. - Rèn luyện và bồi dỡng kỹ năng, phơng pháp đọc thơ Đờng. B. Chuẩn bị - Tranh ảnh về Lý Bạch, dòng Trờng Giang, Lầu Hoàng Hạc - Chia lớp thành nhóm giao cho tài liệu tìm hiểu. C. Cách thức thực hiện 1. Phơng pháp dạy học Kết hợp đọc hiểu sáng tạo, nêu vấn đề với hình thức thảo luận nhóm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Tích hợp thơ Đờng Trung Quốc với thơ Đờng Việt Nam. 2. Những điểm cần lu ý - Tình bạn chân thành, thắm thiết cuả Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên - Phát hiện đợc ý tại ngôn ngoại D. Tiến trình bài học * Kiểm tra bài cũ * Giới thiệu bài mới Giáo viên nhấn mạnh thành tựu thơ Đờng mối quan hệ mặt thiết giữa thơ Đờng với Việt Nam. Việc học thơ đờng giúp chúng ta nâng cao kiến thức, hiểu biết về văn hoá nớc bạn và chính nớc mình. * Bài mới Hoạt động của giáo viên Hoạt động của HS Mục đích cần đạt Hoạt động 1 HS tìm hiểu khái quát về thơ Đờng - Thơ Đờng bao gồm thể loại nào? - Thơ Đờng luật có mấy loại? Gv giải thích thêm về số câu các tên gọi khác nhau của các thể Đờng luật - Em hãy nêu cấu trúc của thơ Đờng luật? Gv giải thích có thể chia làm hai phần đợc - Ngôn ngữ thơ Đờng luật có đặc điểm gì? Gv nhấm mạnh ngôn ngữ tinh luyện, số lợng hạn chế, có những từ nh nhãn tự - Luật thơ đờng luật quy định về luật thơ nh thế nào? Hoạt động 2 Tìm hiểu tiểu dẫn Gv đa một số tranh ảnh chân dung và ảnh chụp bức tranh khắc gỗ Lý Bạch uống rợu ngâm thơ, trang bìa cuốn thi tiêu - Qua tranh minh hoạ hãy trình bày đôi nét về tác giả? - Nội dung thơ văn? - Phong cách nghệ thuật? Hoạt động 3 Giáo viên h- ớng dẫn học sinh đọc văn bản Đọc cả ba phần phiên âm, Hs phát biểu theo nhóm đợc phân công Hs trả lời Hs trả lời Thảo luận trả lời theo nhóm Hs trả lời Hs phát biểu dựa vào phần tiểu dẫn Hs phát biểu Hs trả lời theo nhóm Hs đọc I. Tìm hiểu khái quát thơ Đ- ờng thơ - Đờng luật - 3 thể - Cổ phong - Từ - Bát cú Đờng luật - Tuyệt cú - Bài luật 2. Thơ Đờng luật a. Kết cấu - Bát cú đề, thực, luận, kết - Tuyệt cú Mỗi câu là một phần khai, thừa, chuyển, hợp. b. Ngôn ngữ - Cô đọng, hàm xúc, tinh tế giàu hình ảnh, ý tại ngôn ngoại c. Luật thơ - quy định nhị tứ lục phân minh II. Tìm hiểu tiểu dẫn - Lý Bạch 701- 762 ông là nhà thơi lãng mạn nhất Trung Quốc - Tính tình phóng khoáng, thơ hay nói đến cõi tiên nên gọi là thi tiên - Nội dung thơ văn của tác giả bày tỏ ớc mơ vơn tới lý tởng cao cả, khát vọng giải phóng cá tính, bất bình với hiện thực tầm thờng, thể hiện tình cảm phong phú mãnh liệt - Phong cách thơ hà phóng bay bổng, tự nhiên III. Đọc hiểu văn bản . văn Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Lý Bạch A. Mục đích yêu cầu - Hiểu đợc tình cảm chân thành sâu nặng của nhà thơ Lý Bạch đối với Mạnh. Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên - Phát hiện đợc ý tại ngôn ngoại D. Tiến trình bài học * Kiểm tra bài cũ * Giới thiệu bài mới Giáo viên nhấn mạnh thành tựu - Xem thêm -Xem thêm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Từ khóa liên quan chủ đề bài thơ hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng bài tập nâng cao hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng 黃 鶴 樓 送 孟 浩 然 之 廣 陵 tai lau hoang hac tong manh hao nhien di quang lang soạn văn lớp 10 bài tại lầu hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng lăng tiết 44 tại lầu hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng lăng tại lầu hoàng hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng lăng tiết 57 tại lầu hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng lăng tại lầu hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng lăng giáo án 10 chuẩn tai lau hoang hac tien manh hao nhien di quang lang bài 15 tại lầu hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng lăng soạn lầu hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng lăng soa bai tai lau hoang hac tien manh hao nhien di quang lang huong dan hoc tai lau hoang lactien manh hao nhien di quang lang tại lầu hoàng hạc tiến mạnh họa nhiên đi quảng lăng xác định các mục tiêu của chương trình xác định thời lượng học về mặt lí thuyết và thực tế điều tra đối với đối tượng giảng viên và đối tượng quản lí điều tra với đối tượng sinh viên học tiếng nhật không chuyên ngữ1 khảo sát các chương trình đào tạo theo những bộ giáo trình tiêu biểu nội dung cụ thể cho từng kĩ năng ở từng cấp độ mở máy động cơ lồng sóc mở máy động cơ rôto dây quấn động cơ điện không đồng bộ một pha thông tin liên lạc và các dịch vụ
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Mời các bạn tham khảo thêm tài liệu Chiến Thắng MTAO MXÂY I. Tác giả và chủ đề Lý Bạch 701-762 là một trong ba nhà thơ cự phách đời Đường. Ông được người đời ca ngợi là “Thi tiên”, để lại hơn một nghìn bài thơ tuyệt tác. Là một kiếm khách – thi sĩ, ông coi thường danh lợi, thích ngao du sơn thuỷ, cầu tiên phỏng đạo. Trăng, rượu, hoa, cảnh núi sông tráng lệ, tình bằng hữu, tình quê hương lòng khao khát tự do… chứa chan trong những vần thơ lãng mạn tràn đầy hùng tâm tráng chí. Ông có làm quan khoảng 3 năm ở kinh đô Tràng An nhưng đã vứt bỏ áo mũ, với thanh gươm túi thơ lại lên đường… “Vọng Lư Sơn bộc bố”, “Hành lộ nan”, “Tĩnh dạ tư”, “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”, “Tảo phát Bạch Đế thành”… là những bài thơ nổi tiếng của “Thi tiên” cho thấy một hồn thơ tuyệt đẹp. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” ghi lại một kỷ niệm sâu sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, qua đó nói lên tình lưu luyến, thương nhớ bạn. II. Phân tích 1. Cách đưa tiễn Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Lầu Hoàng Hạc gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc vàng bay về đây. Bạn là Mạnh Hạo Nhiên 689-740 một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý Bạch; một kẻ sĩ hào hiệp hào hoa, phóng khoáng, ưa ngao du, rất tâm đầu ý hợp với Lý Bạch. Hai chữ “Cố nhân” bạn cũ, người xưa trong câu đầu nói lên mối quan hệ sâu sắc, lâu bền về tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách “Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu” Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đường Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Câu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ “tây” chưa dịch được để nói lên hướng đi của bạn. Chữ “bạn” chưa lột tả hết ý và cảm xúc của từ “cố nhân”. Trong thơ cổ, mỗi lần từ “cố nhân” xuất hiện, gợi tả bao tình nghĩa làm rung động hồn người “Dạng chu tầm thuỷ tiện Nhân phỏng cố nhân cư” Mạnh Hạo Nhiên Thuật dòng đủng đỉnh thuyền bơi Cố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà – “Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân” câu 2330- “Truyện Kiều” Câu hai phát triển và hoàn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày tháng ba tam nguyệt mùa hoa khói yên hoa, xuôi về nơi phồn hoa đô hội, Dương Châu – một trong những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng Chữ “há” có bản phiên âm là “hạ”, được Ngô Tất Tố dịch thành “xuôi dòng”, thật là sáng tạo. “Yên hoa” là một thi liệu, một ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau hai địa danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị “Bạn từ lầu Hạc ra đi Dương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba” Nhữ Thành Có thể nói trong hai câu “Khai thừa”, yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ nỗi niềm của một tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Nơi “thi hội tao nhân” cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc Lâu. Lý Bạch đứng trên lầu cao hay trên một cao điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa? Cấu trúc không gian hai điểm mút “cận – viễn” là một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức hoạ cổ Trung Hoa. Lý Bạch đã vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một chỉnh thể nghệ thuật hoàn hảo. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 2. Tình lưu luyến mến thương Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp dòng sông, cánh buồm, bầu trời là hình ảnh của Lý Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa… Cánh buồm đơn côi, lẻ loi cô phàm xa dần, mờ dần viễn ảnh rồi mất hút vào trời xanh, vào cuối chân trời xa bích không tận. Hay tầm lòng “Thi tiên” với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương… như những con sóng gối lên nhau, đưa tiễn con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang? “Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lý Bạch. Dòng sông càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết…. Lí Bạch tả về cái buồn của sự li biệt, nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khoáng khi ông miêu tả cái hùng vĩ của thiên nhiên”. Trần Xuân Đề “Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu” Bóng buồm đã khuất bầu không Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời. Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là “cô phàm viễn ảnh”. Cái tâm cảnh của Lí Bạch được diễn tả bằng hai chữ “duy kiến” – chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế phát triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên Tràng An, Dương Châu, Thành Đô v..v… Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý Bạch “duy kiến” chiếc “cô phàm” của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong “bầu trời xanh biết”. Chỉ sống với một tình bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái nhìn “duy kiến” ấy. Mặc dầu chưa dịch được hai chữ “cô” cô phàm, “bích” bích không tận nhưng Ngô Tất Tố đã lột tả được “điệu Đường”, “hồn Đường” của nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của nhà thơ Lý bạch. III. Tổng kết 1. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” là một trong những tuyệt tác về thơ thất ngôn tứ tuỵêt của Lý Bạch. Vừa cụ thể vừa phổ quát cho muôn đời về nỗi buồn tống biệt và ức hữu. Cấu trúc không gian xa – gần cận – viễn, lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm, ngôn ngữ, trang nhã, gợi cảm, hàm súc… đó là những yếu tố nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp văn chương và cốt cách của bài thơ này. 2. Bài thơ đã phản ánh một tâm hồn đẹp, một tình bạn đẹp của Lý Bạch, cũng là của những tao nhân mặc khách đời Đường. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Thầy giáo làngDiễn đàn của thầy giáo Đoàn Ngọc Khánh Các bài gửi mới nhất Reload Thủ ảnh tràn lề Đang tải dữ LiệuOldTìm hiểu đoạn trích tác phẩm "Ông già và biển cả" của nhà văn Hê-minh-uê Đang tải dữ LiệuOldTìm hiểu tác phẩm "Số phận con người" của Sô lô khốp Đang tải dữ LiệuOldĐất nước - Nguyễn Khoa Điềm bản đầy đủ Đang tải dữ LiệuOldPhân tích thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu Đang tải dữ LiệuOldBài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Đang tải dữ LiệuOldGiới thiệu "Thuốc" của Lỗ Tấn Đang tải dữ LiệuOldBài văn lạ của học trò nghèo gây “sốc” với giáo viên trường Ams Đang tải dữ LiệucogiaolangVẻ đẹp của hình tượng nhân vật HUẤN CAO Đang tải dữ LiệuhoanganhTình nghĩa trong ca dao Đang tải dữ Liệuhoanganh Thầy giáo làng Bài học Lớp 10 Hòang hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng-Lý BạchShare Tác giảThông điệpthầy giáo làngTổng số bài gửi 129Join date 21/11/2011Tiêu đề Phân tích "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng Lăng" Sat Nov 26, 2011 416 pm Lý Bạch 701-762 là một trong ba nhà thơ cự phách đời Đường, được người đời ca ngợi là “Thi tiên” và đã để lại hơn một nghìn bài thơ tuyệt tác. Là một kiếm khách – thi sĩ, ông coi thường danh lợi, thích ngao du sơn thuỷ, cầu tiên phỏng đạo. Trăng, rượu, hoa, cảnh núi sông tráng lệ, tình bằng hữu, tình quê hương lòng khao khát tự do… chứa chan trong những vần thơ lãng mạn tràn đầy hùng tâm tráng chí. Ông có làm quan khoảng 3 năm ở kinh đô Tràng An nhưng đã vứt bỏ áo mũ, với thanh gươm túi thơ lại lên đường… “Vọng Lư Sơn bộc bố”, “Hành lộ nan”, “Tĩnh dạ tư”,"Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng lăng",”Tảo phát Bạch Đế thành”… là những bài thơ nổi tiếng của “Thi tiên” cho thấy một hồn thơ tuyệt thơ Hoàng hạc lâu tống mạnh Hạo nhiên chi Quảng lăng ghi lại một kỷ niệm sâu sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, qua đó nói lên tình lưu luyến, thương nhớ Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Lầu Hoàng Hạc gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên, đã từ đây cưỡi hạc ra đi. Bạn là Mạnh Hạo Nhiên 689-740 một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý Bạch một kẻ sĩ hào hiệp hào hoa, phóng khoáng, ưa ngao du, rất tâm đầu ý hợp với Lý Bạch Hai chữ “Cố nhân” bạn cũ, người xưa trong câu đầu nói lên mối quan hệ sâu sắc, lâu bền về tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu”Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đườngCâu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ “tây” chưa dịch được để nói lên hướng đi của bạn. Chữ “bạn” chưa lột tả hết ý và cảm xúc của từ “cố nhân”. Trong thơ cổ, mỗi lần từ “cố nhân” xuất hiện, gợi tả bao tình nghĩa làm rung động hồn người“Dạng chu tầm thuỷ tiệnNhân phỏng cố nhân cư”Mạnh Hạo NhiênThuật dòng đủng đỉnh thuyền bơiCố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà“Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân”câu 2330- “Truyện Kiều”Câu hai phát triển và hoàn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày tháng ba tam nguyệt mùa hoa khói yên hoa, xuôi về nơi phồn hoa đô hội, Dương Châu – một trong những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng Chữ “há” có bản phiên âm là “hạ”, được Ngô Tất Tố dịch thành “xuôi dòng”, thật là sáng tạo. “Yên hoa” là một thi liệu, một ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau hai địa danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị“Bạn từ lầu Hạc ra điDương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba”Nhữ ThànhCó thể nói trong hai câu “Khai thừa”, yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ nỗi niềm của một tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Nơi “thi hội tao nhân” cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc Lâu. Lý Bạch đứng trên lầu cao hay trên một cao điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa? Cấu trúc không gian hai điểm mút “cận – viễn” là một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức hoạ cổ Trung Hoa. Lý Bạch đã vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một chỉnh thể nghệ thuật hoàn câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp dòng sông, cánh buồm, bầu trời là hình ảnh của Lý Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa…Cánh buồm đơn côi, lẻ loi cô phàm xa dần, mờ dần viễn ảnh rồi mất hút vào trời xanh, vào cuối chân trời xa bích không tận. Hay tầm lòng “Thi tiên” với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương… như những con sóng gối lên nhau, đưa tiễn con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang? “Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lý Bạch. Dòng sông càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết….Lí Bạch tả về cái buồn của sự li biệt, nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khoáng khi ông miêu tả cái hùng vĩ của thiên nhiên”. Trần Xuân Đề“Cô phàm viễn ảnh bích không tậnDuy kiến Trường Giang thiên tế lưu”Bóng buồm đã khuất bầu khôngTrông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là “cô phàm viễn ảnh”. Cái tâm cảnh của Lí Bạch được diễn tả bằng hai chữ “duy kiến” – chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế phát triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên Tràng An, Dương Châu, Thành Đô v..v… Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý Bạch ”duy kiến” chiếc “cô phàm” của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong “bầu trời xanh biết”. Chỉ sống với một tình bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái nhìn “duy kiến” dầu chưa dịch được hai chữ “cô” cô phàm, “bích” bích không tận nhưng Ngô Tất Tố đã lột tả được “điệu Đường”, “hồn Đường” của nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của nhà thơ Lý BạchHoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng lăng là một trong những tuyệt tác về thơ thất ngôn tứ tuỵêt của Lý Bạch Vừa cụ thể vừa phổ quát cho muôn đời về nỗi buồn tống biệt và ức hữu. Cấu trúc không gian xa – gần cận – viễn, lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm, ngôn ngữ, trang nhã, gợi cảm, hàm súc… đó là những yếu tố nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp văn chương và cốt cách của bài thơ này. Bài thơ đã phản ánh một tâm hồn đẹp, một tình bạn đẹp của Lý Bạch, cũng là của những tao nhân mặc khách đời Đường. thầy giáo làngTổng số bài gửi 129Join date 21/11/2011Tiêu đề Re Phân tích "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng Lăng" Tue Nov 29, 2011 1127 pm Lí Bạch tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, nguyên quán ở Thành Kỉ, Lũng Tây, sinh trưởng ở Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc Miên Châu. Quê hương Lí Bạch vốn là nơi có phong cảnh hùng vĩ, sơn thuỷ hữu tình nổi tiếng ở Trung Quốc. Nơi đây tụ họp nhiều anh hùng hảo hán, cũng là nơi sản sinh ra những truyện truyền kì hấp dẫn. Những nhân tố này đã ảnh hưởng nhiều đến hồn thơ phóng khoáng và ý chí kiên cường của nhà thơ, là một trong những nguyên nhân đưa Lí Bạch trở thành nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của văn học Trung đời Lí Bạch là cuộc đời của một con người đã "đọc nát vạn quyển sách, đi hết vạn dặm đường". Lí Bạch sáng tác rất nhiều, có tới trên 1000 bài thơ và nhiều bài nổi tiếng. Thơ Lí Bạch là sự kết hợp của một tâm hồn thơ bay bổng và một tấm lòng luôn tha thiết tình đời. Mỗi bài thơ của ông là một tâm sự của một người luôn tha thiết được thực hiện chí quân tử, đồng thời cũng là niềm say mê cảnh đẹp của giang sơn gấm vóc. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là một bài thơ thành công và thể hiện khá tập trung những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Lí Bạch. Bài thơ khai thác đề tài tình bạn, đề tài chia li giữa những người tri âm tri kỉ một đề tài rất quen thuộc trong thơ ca cổ kim. Với một đề tài quen thuộc nhưng tài năng của Lí Bạch đã tạo nên một biểu tượng đẹp về tình bằng hữu. Mạnh Hạo Nhiên là bạn tri âm của Lí Bạch, trong bài thơ tặng Mạnh Hạo Nhiên, Lí Bạch viết Ta yêu Mạnh Hạo NhiênPhong lưu thiên hạ biếtMạnh Hạo Nhiên 689 740 là một nhà thơ có tiếng đời Đường. Dù chênh nhau 12 tuổi nhưng giữa hai nhà thơ có nhiều điểm tương đồng, đều gặp nhiều trắc trở trong cuộc đời, tính tình hào hiệp, coi thường công danh, thích ngao du sơn thuỷ. Mạnh Hạo Nhiên theo lời triệu của triều đình, đi Dương Châu làm quan, chấm dứt những ngày bạn bè bên nhau, chén tạc chén thù. Bài thơ không có hình ảnh cuộc chia tay, chỉ có tâm sự của người đưa tiễn. Lầu Hoàng Hạc là một địa danh, di tích văn hoá nổi tiếng của Trung Quốc, lại là địa điểm của một cuộc chia li đầy tâm sự. Vì vậy, bài thơ như một bức tranh sơn thuỷ đẹp và gợi cảm. Ngôn ngữ thơ Đường vốn không phong phú nhưng lại rất hàm súc. Các nhà thơ cổ điển rất chú ý đến việc lựa chọn, gọt giũa và trau chuốt ngôn từ. Hình ảnh thơ cũng thường mang tính khái quát cao với những ẩn dụ tượng trưng có giá trị hàm súc. Nghệ thuật tinh xảo của ngôn ngữ và niêm luật tạo nên khả năng "ngôn hữu hạn ý vô cùng" cho bài thơ Đường. Niêm luật chặt chẽ và những quy tắc đối xứng tạo cho bài thơ vẻ đẹp cổ điển. Đặc biệt tính chất "thi trung hữu hoạ" và "thi trung hữu nhạc" được thể hiện rất triệt để trong thơ thể thấy bài thơ được sáng tác vào giai đoạn Lí Bạch đã gặp một số trắc trở trên con đường thực hiện lí tưởng giúp nước của mình. Lí Bạch từng được giới thiệu vào triều đình của Đường Minh Hoàng nhưng ông đã rất thất vọng và tìm quên trong vò rượu. Tính tình phóng khoáng của Lí Bạch không hợp với cuộc sống chen chúc và đầy phức tạp chốn quan trường. Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ Đường thuộc trường phái thơ "sơn thuỷ điền viên", là một người phóng khoáng, hợp với cuộc sống thanh nhàn nơi làng quê nhưng ông lại đến Dương Châu làm quan. Và vì thế Lí Bạch tiễn đưa bạn trong một tâm trạng đầy trắc ẩn, vừa cô đơn vừa lo lắng. Bài thơ tứ tuyệt cổ điển hai mươi tám chữ nhưng cô đọng cả một niềm day dứt lớn. Bài thơ có lối mở đầu quen thuộc của Đường thi, câu đề từ giới thiệu tình huống Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâuBạn từ lầu Hạc lên đườngCâu thơ dịch đã làm mất khả năng hàm súc của ngôn từ. Những từ "cố nhân", "tây từ" truyền tải nghĩa rộng hơn nhiều so với từ "bạn" và ý nghĩa chỉ địa điểm cuộc chia tay. Hơn nữa, việc sử dụng nhiều thanh bằng và gieo vần bằng của nguyên tác đã gợi một dư âm cho câu thơ thể hiện trạng thái bịn rịn của cuộc li biệt. Cố nhân xuôi Dương Châu là đi về hướng đông. "Tây từ" là hướng về phía tây về phía lầu Hoàng Hạc khi đã lên thuyền xuôi hướng Dương Châu, gợi hình ảnh người ra đi đang hướng về lầu Hoàng Hạc. Đây thực ra là hình ảnh người ra đi trong cảm nhận của người ở lại. Hình tượng, thời gian và không gian nghệ thuật của bài thơ đều được tái hiện qua cảm nhận của người ở lại. Câu thơ thứ nhất là hoàn cảnh, địa điểm của cuộc chia tay, đều rất cụ thể. Câu thơ thứ hai lại mở ra không gian cuộc chia tay một không gian đầy chất thơ. Vừa là không gian thực của cuộc chia tay, vừa là không gian nghệ thuật Yên hoa tam nguyệt há Dương ChâuGiữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòngBốn chữ "yên hoa tam nguyệt" được dùng để chỉ thời gian, với ý nghĩa là tháng ba, vào mùa xuân. Đây là một buổi sáng mùa xuân, khi hơi nước quyện với sương mù tháng ba đã tạo nên hình ảnh "hoa khói". Đây là thời gian và không gian cuộc chia tay song cũng là những biểu tượng nghệ thuật có sức gợi rất lớn. "Yên hoa" là "hoa và khói", thường chỉ khói sóng trên sông, khói sương mù. Vào mùa xuân ở Trung Quốc, đây là hình ảnh thiên nhiên không mấy xa lạ và nó đã đi vào thơ như một hình tượng nghệ thuật đầy gợi cảm, làm thức dậy bao nỗi niềm tâm sự của thi nhân như nhà thơ Thôi Hiệu đã thổ lộ "Yên ba giang thượng sử nhân sầu". "Yên hoa" còn có nghĩa là cảnh đẹp mùa xuân. Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên là hai người bạn tri âm, tính tình đều rất phóng khoáng, thích ngao du sơn thuỷ. Với hai tâm hồn nghệ sĩ ấy thì lầu Hoàng Hạc giữa mùa xuân là khung cảnh gợi bao thi hứng, đó là nơi lí tưởng để họ đàm đạo thi ca và nhân tình thế thái. Đó cũng là những giây phút mà cả hai đều thú vị. Thế nhưng họ lại phải chia tay nhau. Và đương nhiên mỗi người mang trong mình một nỗi niềm tâm sự. Câu thơ thứ hai đã hé mở tâm sự của người đưa tiễn. Tâm sự ấy được bộc lộ rõ hơn ở hai câu thơ cuối Cô phàm viễn ảnh bích không tận,Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.Bóng buồm đã khuất bầu không,Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.Đề tài là một cuộc chia li nhưng thực ra bài thơ lại là tâm trạng của người đưa tiễn, tức là chủ thể trữ tình của bài thơ. Vì vậy thời gian và không gian nghệ thuật của bài thơ vừa hư vừa thực, nó thiên về thời gian và không gian tâm tưởng. Được viết theo mạch cảm xúc nên bài thơ có kết cấu hướng tâm. Tâm điểm là hình ảnh người ra đi. Cuộc đưa tiễn tinh thần này được diễn ra trong một không gian mở và một thời gian vô gian mở ra trước tầm mắt của nhân vật trữ tình, từ lầu Hoàng Hạc hướng về Dương Châu, nơi người ra đi đang hướng đến. Nhưng chỉ lướt qua hình tượng "yên hoa" để dừng lại và tạo điểm nhấn ở hình ảnh "cô phàm". Đây là một bài thơ giàu chất hội hoạ. Bài thơ như một bức tranh xinh xắn, có chiều sâu hun hút và điểm nhấn của bức tranh hay hình ảnh sắc nét nổi trội nhất của bức tranh là hình ảnh một cánh buồm lẻ loi giữa màu xanh bất tận của nước Trường Giang và của chân trời. Cánh buồm nhỏ ấy đã ở rất xa, chỉ còn là viễn ảnh, nó thật nhỏ nhoi và cô độc giữa cái bát ngát vô tận của màu xanh nối tiếp đến tận chân trời. Câu thơ thứ ba trong bài thơ tứ tuyệt có vai trò rất quan trọng. Ở câu thơ này, tác giả đã tạo nên một cặp hình ảnh đối lập, một thủ pháp nghệ thuật rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Đó là sự đối lập giữa "cô phàm" và "bích không tận". Cái nhỏ nhoi đơn độc của cánh buồm giữa sự mênh mông của sông nước đã gợi tả hình ảnh của người ra đi. Giữa cảnh sắc nước trời mùa xuân thơ mộng, người ra đi lại hướng đến một nơi xa xôi đầy những điều bất trắc. Cô độc là tâm trạng tất yếu của mọi cuộc chia li. Nhất là cuộc chia tay giữa những người bạn tri âm. Vậy cánh buồm cô đơn ấy là tâm trạng cô đơn của chủ thể trữ tình người đưa tiễn. Thả hồn theo bóng người ra đi, người ở lại dõi tầm mắt theo người ra đi đến khi hình ảnh người ra đi chỉ còn là cánh buồm nhỏ rồi dần mất hút, và trước mắt chỉ còn duy nhất hình ảnh dòng Trường Giang cuộn chảy Duy kiến Trường Giang thiên tế lưuTrông theo chỉ thấy dòng sông bên trờiDòng Trường Giang vốn hùng vĩ, dưới cái nhìn của người ở lại càng dữ dội hơn. Nó trở thành "thiên tế lưu". Bản dịch đã không lột tả được thần thái của hai câu thơ cuối. Cái chất "thiên tế lưu" của dòng Trường Giang thể hiện được cả sóng trong lòng người đưa tiễn, đó là một cơn sóng dữ dội. Chứng tỏ cuộc chia tay đã tác động rất mạnh đến tâm lí người ở lại. Đây là những hình ảnh thơ rất hay xuất hiện trong thơ Lí Bạch. Là nhà thơ lãng mạn, thích phóng túng, ưa thích tự do nên bên cạnh những vần thơ phá luật, nhà thơ còn thích dùng những hình ảnh có tính chất dữ dội và giàu khả năng gợi cảm. Khi miêu tả thác Lư Sơn tác giả đã dùng hình ảnh "Phi lưu trực há tam thiên xích", còn dòng Trường Giang thì như từ trên trời đổ xuống. Cái dữ dội của dòng Trường giang dưới con mắt của người đưa tiễn có thể liên tưởng rộng hơn nữa. Phải chăng Dương Châu phồn hoa đô hội còn có cái gì đó thật dữ dằn đối với người sắp đến. Cánh buồm của Mạnh Hạo Nhiên đơn độc và vô cùng nhỏ bé trước cái vô cùng của sông nước Trường Giang và thật yếu ớt mong manh trước cái dữ dội của dòng sông ấy. Bản chất trong sáng, thẳng ngay và tấm lòng thanh bạch của những người nghệ sĩ có tâm như Lí Bạch, Mạnh Hạo Nhiên thật không dễ tồn tại yên ổn trong thế giới quan trường đầy cạm bẫy và mưu mô danh lợi. Đó có phải là nỗi lo lắng của người ở lại dành cho người ra đi khi biết rằng bạn mình đến một nơi chẳng mấy bình yên ? Sinh thời Lí Bạch là người thích ngao du sơn thuỷ song cũng luôn da diết một khát vọng giúp nước. Là người quân tử, cả Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên đều đã muốn mang tài năng của mình ra giúp nước. Nhưng sau nhiều phen thất vọng vì không thực hiện được hoài bão chính trị, những khát khao ấy đã trở thành nỗi đau đời trong ông. Có thể bài thơ được sáng tác khi Lí Bạch đã vấp phải những thất bại trên đường đi tìm minh quân để phát huy tài năng, giúp ích thiên hạ. Vì vậy khi Mạnh Hạo Nhiên quyết định đến Quảng Lăng để làm quan, nỗi háo hức được phò vua giúp nước trong Lí Bạch đã phần nào bớt sôi nổi. Và thay vào đó là tâm trạng hồ nghi. Và, chính vì lẽ đó mà bên cạnh nỗi cô đơn của cả người đi và người ở lại còn là một nỗi băn khoăn day dứt. Về nội dung, bài thơ có khả năng gợi rất nhiều liên tưởng. Nhưng bao trùm lên tất cả là tâm trạng rất bộn bề của người đưa tiễn. Sức khái quát và khả năng gợi tả của bài thơ được làm nên bởi những hình thức nghệ thuật độc đáo. Bài thơ nhỏ nhắn xinh xắn như một bức tranh sơn thuỷ mà màu sắc và đường nét đều rất sắc sảo. Với hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh và đậm chất hội hoạ, bài thơ đã chứng tỏ tài năng nghệ thuật của thi tiên Lí Bạch. Và cuộc chia tay tinh thần đầy lưu luyến diễn ra trong tâm tưởng người ở lại đã chứng tỏ tình bạn thắm thiết giữa hai thi nhân tài năng đời Đường Phân tích "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng Lăng" Trang 1 trong tổng số 1 trangBài viết mới cùng chuyên mụcBài viết liên quanPermissions in this forumBạn không có quyền trả lời bài viếtThầy giáo làng Bài học Lớp 10 Hòang hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng-Lý Bạch
Các em hãy cùng Phân tích Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng để thấy được tình bạn, tình tri kỉ cảm động của Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong giây phút chia li. Bài văn mẫu dưới đây sẽ cung cấp thêm những thông tin thú vị để các em có thể tự hoàn thành bài phân tích của mình. Bài viết liên quan Cảm nhận về tình bạn giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Sơ đồ tư duy bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Khái quát đặc sắc về nội dung và nghệ thuật bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Dàn ý cảm nhận về tình bạn giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong bài Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Đề bài Phân tích Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng LăngMục Lục bài viếtI. Dàn ý chi tiết 1. Mở bài 2. Thân bài 3. Kết bàiII. Bài văn mẫu Phân tích Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng LăngI. Dàn ý Phân tích Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 1. Mở bài- Giới thiệu về tác giả và phong cách sáng Dẫn và bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng. 2. Thân bàia. Hoàn cảnh sáng tác Tự tìm hiểu.b. Hai câu thơ đầu Cảnh đưa tiễn bạn hiền của thi nhân* Bối cảnh không gian- Hoàng Hạc lâu+ Là nơi chia tay của Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên.+ Nằm ở Vũ Hán, Hồ Bắc, về phía tây so với thành Giang Tô tức là Quảng Lăng và Dương Châu cũ.+ Là cảnh sắc thần tiên, tượng trưng cho sự thanh tĩnh, yên bình, tao Dương Châu Quảng Lăng+ Là nơi đến của Mạnh phu tử.+ Nằm ở phía đông của tỉnh Giang Tô ngày nay.+ Chốn phồn hoa đô hội bậc nhất, tượng trưng cho không gian động, nhộn Trường Giang Là dòng sông huyết mạch nối liền hai hướng đông tây, đưa Mạnh Hạo Nhiên đi từ chốn ẩn cư về nơi đô hội.=> Không gian rộng lớn, mênh mông.* Thời gian- "Yên hoa tam nguyệt" Tức là mùa xuân hoa nở "Tam nguyệt" là chỉ khoảng thời gian hoa nở rực rỡ và nhiều nhất, thời tiết ấm áp, trong "Yên hoa" Chính là chỉ cảnh hoa nở trắng xóa diễm lệ như sương khói hai bên bờ sông, phụ là chỉ cảnh sương khói trên sông nước phủ lên trên rừng hoa tạo nên cảnh "hoa khói" lạ lùng.* Con người- "Cố nhân" Gợi ra mối quan hệ giữa người đi kẻ ở, đó là mối quan hệ bằng hữu đã thành tri kỷ, gắn bó sâu Hai câu thơ sau Nỗi lòng của thi nhân* Câu thơ thứ 3 "Cô phàm viễn ảnh bích không tận"- "Cô phàm" Cánh buồm lẻ loi, cô độc, một là gợi ra ánh mắt chăm chú vào cánh buồm đang rời đi của bạn, hai là thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng trong tâm hồn tác "Viễn ảnh" Gợi ra ánh mắt đau đáu theo hướng bạn rời đi, thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết, nỗi mong nhớ khi bạn đi "Bích không tận" Màu xanh gợi ra sự lạnh lẽo, cô đơn trong cõi lòng tác giả.* Câu thơ thứ 4 "Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu"- Đặt trong mối quan hệ "có - không - có" , từ việc nhìn thấy dòng sông và mảnh trời mênh mông, gợi ra sự mất hút của bóng thuyền bạn hiền, từ đó gợi ra nỗi nhớ thương, tình cảm tha thiết của người ở Kết bàiTổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật. II. Bài văn mẫu Phân tích Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng LăngCùng với Đỗ Phủ, Lý Hạ, Vương Duy thì Lý Bạch chính là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời thịnh Đường, và được người đời tán dương ca tụng là thi tiên. Ông là một trong những nhà thơ có công lớn nhất đã mở ra thời đại hưng thịnh vượt bậc của Đường thi, với phong cách thơ theo chủ nghĩa lãng mạn, bay bổng tựa như một vị tiên nhân chốn phàm trần. Với thiên phú dị bẩm trong thi ca, ông đã sáng tác và để lại cho hậu thế hàng ngàn bài thơ bất hủ, thậm chí nhiều bản thơ của ông đã được dịch sang cả tiếng nước ngoài. Các chủ đề mà Lý Bạch, nhà thơ yêu rượu, kính rượu hướng tới thường là mối quan hệ bằng hữu thân tình, những sự lạ lùng kỳ bí của thiên nhiên cây cỏ, hoặc là để kín đáo bộc lộ những tâm trạng thầm kín sâu trong lòng đi kèm với thú chơi tao nhã - uống rượu làm thơ của mình. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của thi tiên Lý Bạch với chủ đề tán dương, ngợi ca tình cảm bạn bè, đã trở thành bài thơ quen thuộc với nhiều độc giả yêu thơ. Đặc biệt là câu thơ "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" dường như đã trở thành câu cửa miệng của nhiều Bạch là người ưa ngao sơn ngoạn thủy, đặc biệt là trong 10 năm sau khi rời khỏi cung cấm ông lại càng có dịp đi nhiều nơi. Ông từng qua Triệu, Ngụy, Tề, Tần, Lương, Tống, các vùng Bân, Kỳ, Thương, Ư, Lạc Dương, các sông Hoài, sông Tứ... chính vì đi nhiều nơi nên ông có dịp được hội ngộ nhiều bậc kỳ tài, văn chương, tài học đều lỗi lạc. Trong đó có Đỗ Phủ, Sầm Tham, Cao Thích,... và Mạnh Hạo Nhiên là người đặc biệt xuất hiện nhiều nhất trong thơ của Lý Bạch. Bài thơ được viết trong khoảng năm 729 - 730, khi Mạnh Hạo Nhiên quyết định từ giã cuộc sống ẩn dật xuôi dòng về Dương Châu. Để tiễn bạn, Lý Bạch đã truyền tin cho Mạnh phu tử hẹn gặp ở Hoàng Hạc lâu, tại Giang Hạ Vũ Hán, sau vài hôm vui vầy, thì Mạnh Hạo Nhiên theo thuyền về phía Đông. Đứng bên bờ sông nhìn bóng bạn khuất dần, lòng thi nhân có nhiều cảm xúc khó tả, Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng đã ra đời từ đó."Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâuYên hoa tam nguyệt há Dương ChâuCô phàm viễn ảnh bích không tậnDuy kiến Trường Giang thiên tế lưu"Đường thi là thể thơ vần luật nghiêm ngặt, câu chữ hạn chế và vô cùng hàm súc thế nên việc dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt sau cho thoát nghĩa hợp vần dường như là thách thức đối với đa số các dịch giả. Duy chỉ có Tản Đà là người có vốn Hán học sâu rộng nên những bài thơ Đường ông dịch đều sát nghĩa và hay. Xét về bài Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, đọc bản gốc và bản dịch thơ thì dường như các ý chỉ đúng tương đối và dịch giả còn bỏ sót rất nhiều chi tiết quan trọng, làm cho bài thơ kém đi nhiều cái hay đặc sắc. Chính vì thế việc phân tích nên dựa vào bản gốc và phần dịch nghĩa để có thể hiểu một cách chính xác từng tầng ý nghĩa và tác giả muốn truyền tải, còn bản dịch thơ chỉ nên lấy làm tham hết, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu cảnh tiễn đưa bạn hiền của Lý Bạch thông qua hai câu thơ đầu."Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâuYên hoa tam nguyệt há Dương Châu"Sau những ngày gặp gỡ bạn hiền cuối cùng Lý Bạch cũng phải tiễn bạn lên đường, Mạnh Hạo Nhiên lại xuôi dòng Trường Giang tiến về vùng Dương Châu. Với nét đặc trưng hàm súc, ngắn gọn và niêm luật chặt chẽ, nhưng phải truyền tải được nội dung sâu và rộng. Điều ấy đã yêu cầu các tác giả phải làm sao lựa chọn câu từ sao cho thật chuẩn xác, nhưng vẫn có mối liên hệ chặt chẽ. Nhìn vào hai câu thơ đầu, rõ ràng rằng Lý Bạch đã rất xuất sắc khi chỉ dùng 14 chữ mà đã bao quát được một buổi đưa tiễn với đầy đủ không gian, thời gian và cả con người trong ấy. Đặc biệt người đọc, càng đi tìm, càng ngẫm nghĩ lại càng khai mở được cái ý thơ ẩn chứa, tựa nhưng đang khai phá một kho tàng nghệ thuật vậy. Trước hết ta bàn về cái không gian của buổi đưa tiễn, phải khẳng định rằng đó là một không gian vô cùng bao la và rộng lớn. Tại sao lại nói vậy? Bởi cứ xét xem, trước là điểm mà Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên gặp gỡ, đàm đạo mấy ngày trời - Hoàng Hạc lâu . Đây là một trong tứ đại danh tháp của Trung Quốc, gắn liền với truyền thuyết cưỡi hạc vàng ngao du của Phí Văn Vi, nằm ở thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, nếu xét theo phương hướng thì nó nằm về phía tây của thành Giang Tô Quảng Lăng cũ. Xét về tính chất đây là nơi tiễn bạn của Lý Bạch cũng là nơi xuất phát của Mạnh phu tử, nó mang một vẻ thần tiên, tĩnh lặng và tao nhã. Trái lại, thì Dương Châu, nơi mà Mạnh Hạo Nhiên sẽ đến lại nằm ở phía Đông của tỉnh Giang Tô ngày nay. Đây là nơi phồn hoa đô hội bậc nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ, mang vẻ nhộn nhịp sôi động, khác hẳn với Hoàng Hạc lâu. Và nối giữa hai địa điểm ấy, là dòng Trường Giang rộng lớn, là huyết mạch giao thông quan trọng nối liền hai đầu đất nước, dẫn con thuyền của Mạnh Hạo Nhiên từ biệt phía tây hướng về phía Đông, đi từ nơi ẩn cư, thanh tĩnh sang chốn phồn hoa, rực rỡ. Có thể thể nói rằng, với 14 chữ ngắn gọn, cùng 2 địa điểm chính là Hoàng Hạc lâu và Dương Châu, Lý Bạch đã gợi mở ra một không gian đưa tiễn thật bao la, rộng lớn, mà lúc đầu nếu người đọc không tinh ý có lẽ chỉ thấy được một căn lầu với kẻ ở người đi, bó hẹp, sơ là bàn về không gian, lại nói về thời gian trong tác phẩm cũng có nhiều điều đáng bàn, dẫu rằng nó chỉ gói gọn trong 4 chữ "yên hoa tam nguyệt". Trong các bản dịch thơ hiện nay, đa phần các dịch giả vẫn còn vướng mắc hoặc có ý riêng khi diễn đạt không đầy đủ, thậm chí có phần đi xa so với nguyên tác, không diễn đạt được cái ý đồ thơ mà tác giả xây dựng. Ví như cụ Ngô Tất Tố dịch "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" thành "Giữa mùa hoa khói Dương Châu xuôi dòng", bỏ qua cụm "tam nguyệt", hoặc Trần Trọng Kim lại dịch thành "Tháng 3 trẩy xuống Dương Châu thuận dòng", bỏ mất cái "yên hoa". Chung quy lại thì đều kém đi rất nhiều cái ý tứ thơ của Lý Bạch, thực tế trong các bài thơ Đường thi, không phải chỉ đơn giản là dịch đúng nghĩa của từ mà ra được ý thơ mà còn phải dùng sự suy vi để biến chuyển cái ý vốn đã được thi nhân cô đọng hết sức của câu thơ. Bây giờ nói về "yên hoa tam nguyệt" dịch sát nghĩa thì tức là "hoa khói tháng ba", tính ra cái ý của Lý Bạch nó thường quá, dĩ nhiên là không phải vậy rồi. Thực tế người Trung Quốc sẽ hiểu cụm "yên hoa tam nguyệt" thành ý "mùa xuân hoa vừa nở rộ". Tại sao lại nói như vậy, thì có thể lý giải rằng, tháng một là lúc hoa bắt đầu khai nụ, tháng hai khai hoa, tháng ba đúng vừa lúc hoa nở rộ nhất, rực rỡ nhất, bởi khi ấy đã là cuối xuân, thời tiết ấm áp hẳn, thế nên mới có "tam nguyệt" là vậy. Còn "yên hoa" , ngoài ý là cảnh tượng hoa nở trắng xóa hai bên bờ Trường Giang, diễm lệ như sương khói, thì có lẽ còn một phần là ở khói trắng của vùng sông nước lượn lờ trên hoa nên mới có cái cảnh "hoa khói" mơ hồ khiến nhiều người khó hiểu vậy. Chung quy lại "yên hoa tam nguyệt" chính là điểm nhấn cho phong cách thơ lãng mạn, bay bổng của thi tiên Lý Bạch. Đồng thời cảnh mùa xuân hoa nở ấy còn gợi ra một khung cảnh ấm áp, tươi đẹp, tiết trời trong sáng, ngụ ý chúc người đi thuận buồm xuôi bối cảnh không gian và thời gian vừa rộng lớn, vừa thơ mộng thì hình ảnh con người chỉ hiện lên trong vòng hai chữ "cố nhân" đầy xúc tích, khéo léo nói lên mối quan hệ giữa kẻ tiễn với người đưa. Người đi là Mạnh Hạo Nhiên là một nhà thơ nổi danh của thời Đường, là người mà Lý Bạch ngưỡng mộ về cả tài năng và nhân cách, còn người ở rõ ràng là Lý Bạch. Hai người có tình bạn vong niên được xếp vào hàng tri kỷ, thấu hiểu lẫn nhau, khi Mạnh phu tử lớn hơn Lý Bạch tới 12 tuổi, thế nhưng nó không thể ngăn cách được sự đồng điệu trong tâm hồn của hai nhà thơ lớn đương thời. Từ "cố" ở đây không chỉ đơn thuần diễn đạt những điều đã cũ, mà là để bộc lộ tình cảm gắn bó, trân trọng với người bạn đã cùng nhau trải qua nhiều những kỷ niệm đáng nhớ, là tình bạn có sự thử thách của thời gian, năm tháng. Như vậy tổng hòa các yếu tố, không gian, thời gian, con người đã được đặt trong một mối quan hệ bao quát hơn, thứ nhất là mối quan hệ trong cái đẹp bao gồm thời tiết thuận lợi, cảnh sắc tuyệt vời, tình bằng hữu tri kỷ. Thứ hai các yếu tố trên còn được đặt trong mối quan hệ giữa có và không, người Trung Quốc vẫn quan niệm niệm tứ thú bao gồm "giai thì, mỹ cảnh, thắng sự, lương bằng", thì có thể thấy trong bối cảnh thơ thì đã thỏa cả ba thứ duy chỉ thiếu một cái gọi là "thắng sự". Bởi chuyện tiễn bạn lên đường đi xa, chuyện biệt ly trước giờ là việc vui vẻ, dẫu rằng người đi có hướng về một nơi tốt đẹp thế nào đi chăng nữa, thì kẻ ở lại sao tránh khỏi buồn thương. Và thi tiên Lý Bạch cũng như vậy, cảnh đẹp, thời tiết đẹp, có bạn tốt, thế nhưng bạn phải đi xa, biết bao nhiêu cái đẹp cũng để lại một dấu trầm trong lòng người thi nhân, có đẹp hơn thế nữa cũng bằng với hai câu thơ đầu thì hai câu thơ cuối lại tập trung bộc lộ cảm xúc của tác giả. Trước hết là thông qua việc tái hiện hiện hình ảnh thi nhân dõi mắt theo con thuyền chở bạn cho đến khi khuất bóng trên Trường Giang ở câu thơ thứ ba."Cô phàm viễn ảnh bích không tận"Ở đây nếu độc giả tinh ý có thể phát hiện ra một sự phi lý của hình ảnh "cô phàm" - cánh buồm lẻ loi cô đơn. Phi lý ở chỗ, Trường Giang vốn là con đường giao thông huyết mạch của Trung Quốc, lại đang là đợt tháng 3, tháng cuối cùng của mùa xuân ấm áp, hẳn phải có vô số thuyền qua lại, thế nhưng trong thơ của Lý Bạch lại chỉ có độc một cánh buồm lẻ loi trên dòng sông. Sở có cảnh lạ lùng ấy là bởi tấm lòng đã định hướng cho đôi mắt, tác giả chỉ một lòng hướng theo con thuyền của bạn mình dần đi xa mà bỏ qua những con thuyền khác, thế nên thấy nó cô độc và lẻ loi. Thứ hai nữa là vốn dĩ trong lòng tác giả lúc này đây cũng đang dấy lên biết bao cảm giác cô đơn, lạc lõng mà theo như Nguyễn Du đã nói "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Dẫu ngoài kia có muôn thuyền bè ngược xuôi thì Lý Bạch cũng vẫn cảm giác rằng con thuyền của Mạnh Hạo Nhiên thật cô độc, lẻ loi khi tiến về chốn phồn hoa đô hội rực rỡ. Con thuyền ra đi mà mang theo của nỗi lòng của người ở lại, mênh mang không một hình ảnh khác cần chú ý ấy là "viễn ảnh bích không tận", tức là sự vận động xa dần của cánh buồm rồi mất hút vào khoảng không bao la, trong màu xanh bát ngát của trời nước. Như vậy có thể thấy rằng hình ảnh này đã khéo léo gợi ra ánh mắt chăm chú dõi theo chiếc thuyền đi xa của người ở lại, giống như Nguyễn Bính đã từng có một câu thơ tương tự "Anh đi đấy, anh về đâu/Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm", thoạt tiên còn thấy màu sắc, sau cùng chỉ còn thấy mờ mờ một cánh buồm nhỏ. Cũng ở câu thơ thứ ba này tác giả nhấn mạnh màu xanh biếc của trời nước "bích không tận" , đó là một gam màu lạnh trong hội họa. Và bản thân gam màu lạnh ấy đã gợi ra sự lạnh lẽo, trống trải, cô đơn trong cõi lòng của người ở lại. Như vậy ở đây không còn đơn thuần là cảnh đưa tiễn mà còn là tình cảm chất chứa của người đưa tiễn ẩn đầy trong từng ý thơ một, rất sâu câu thơ cuối cùng "Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu" ta lại thấy một cái hay khác trong thơ Lý Bạch, ở đây tác giả đã thiết kế một cấu trúc đa tầng để tạo nên chiều sâu cho ý thơ, từ cái có gợi ra cái không, rồi từ cái không lại gợi ra cái có, rất thú vị. Cái có là cái hiện hữu trước mắt, là cái mà thị giác có thể cảm nhận được, đó là dòng sông vô thủy, vô chung, mênh mông đến tận cõi trời vô hạn, khôn cùng. Từ cái hữu hình vô tận ấy thì ta nhìn ra được cái không chính là sự biến mất của con thuyền, là sự biến mất của người bạn trong khung cảnh trời nước. Rồi chính từ cái sự biến mất ấy, tác giả lại gợi ra cái ánh mắt đau đáu dõi theo bóng bạn cho đến khi khuất bóng không còn thấy gì nữa, ta nhận thấy được sự hụt hẫng, trống trải, cô đơn trong lòng thi nhân, thấy được nỗi nhớ thương của người ở lại, là tình cảm sâu nặng của người ở lại dành cho người ra đi. Như vậy có thể thấy rằng ở hai câu thơ cuối, nhìn chung thì có vẻ là tả cảnh, nhưng thực tế sức nặng của câu thơ lại nằm ở việc tác giả từ cảnh mà suy ra tình .Chính cái sự bóc tách từng nỗi niềm qua mỗi ý thơ đã chứng minh được sự hàm súc và tài năng tuyệt thế của Lý Bạch trong thể loại Đường Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng đã thể hiện sâu sắc tình bạn chân thành, gắn bó của hai nhà thơ lớn thời thịnh Đường, từ đó Lý Bạch mang đến cho muôn đời sau bài học về sự trân trọng tình bạn, tình bằng hữu quý giá. Về nghệ thuật, tác giả đã rất thành công trong việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ sử dụng giản dị nhưng hàm súc cô đọng, "ý tại ngôn ngoại", ít chữ nhưng ẩn chứa nhiều huyền cơ. Đặc biệt tiêu biểu cho phong cách thơ lãng mạn của thi tiên Lý Bạch ấy là hình ảnh thơ tươi sáng, trong trẻo, giàu sức Bên cạnh bài Phân tích Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, các em học sinh có thể tham khảo thêm một số bài văn hay lớp 10 khác như Cảm nhận về tình bạn giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Cảm nhận thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Khái quát đặc sắc về nội dung và nghệ thuật bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng, Sơ đồ tư duy bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng.
Bài viết liên quan Cảm nhận về tình bạn giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Cảm nhận thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Phân tích Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Dàn ý cảm nhận bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Dàn ý cảm nhận về tình bạn giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong bài Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Đề bài Anh/chị hãy Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng LăngMục Lục bài viết1. Bài mẫu số 12. Bài mẫu số 23. Bài mẫu số 33 Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 1. Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, mẫu số 1Lý Bạch 701-762 là một trong ba nhà thơ cự phách đời Đường, được người đời ca ngợi là "Thi tiên" và đã để lại hơn một nghìn bài thơ tuyệt tác. Là một kiếm khách - thi sĩ, ông coi thường danh lợi, thích ngao du sơn thuỷ, cầu tiên phỏng đạo. Trăng, rượu, hoa, cảnh núi sông tráng lệ, tình bằng hữu, tình quê hương lòng khao khát tự do... chứa chan trong những vần thơ lãng mạn tràn đầy hùng tâm tráng chí. Ông có làm quan khoảng 3 năm ở kinh đô Tràng An nhưng đã vứt bỏ áo mũ, với thanh gươm túi thơ lại lên đường... "Vọng Lư Sơn bộc bố", "Hành lộ nan", "Tĩnh dạ tư", "Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng lăng", "Tảo phát Bạch Đế thành"... là những bài thơ nổi tiếng của "Thi tiên" cho thấy một hồn thơ tuyệt thơ Hoàng hạc lâu tống mạnh Hạo nhiên chi Quảng lăng ghi lại một kỷ niệm sâu sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, qua đó nói lên tình lưu luyến, thương nhớ Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Lầu Hoàng Hạc gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên, đã từ đây cưỡi hạc ra đi. Bạn là Mạnh Hạo Nhiên 689-740 một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý Bạch một kẻ sĩ hào hiệp hào hoa, phóng khoáng, ưa ngao du, rất tâm đầu ý hợp với Lý Bạch Hai chữ "Cố nhân" bạn cũ, người xưa trong câu đầu nói lên mối quan hệ sâu sắc, lâu bền về tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách"Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu"Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đườngCâu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ "tây" chưa dịch được để nói lên hướng đi của bạn. Chữ "bạn" chưa lột tả hết ý và cảm xúc của từ "cố nhân". Trong thơ cổ, mỗi lần từ "cố nhân" xuất hiện, gợi tả bao tình nghĩa làm rung động hồn người"Dạng chu tầm thuỷ tiệnNhân phỏng cố nhân cư"Mạnh Hạo NhiênThuật dòng đủng đỉnh thuyền bơiCố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà"Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân"câu 2330- "Truyện Kiều"Câu hai phát triển và hoàn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày tháng ba tam nguyệt mùa hoa khói yên hoa, xuôi về nơi phồn hoa đô hội, Dương Châu - một trong những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường"Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng Chữ "há" có bản phiên âm là "hạ", được Ngô Tất Tố dịch thành "xuôi dòng", thật là sáng tạo. "Yên hoa" là một thi liệu, một ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau hai địa danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị"Bạn từ lầu Hạc ra điDương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba"Nhữ ThànhCó thể nói trong hai câu "Khai thừa", yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ nỗi niềm của một tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Nơi "thi hội tao nhân" cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc Lâu. Lý Bạch đứng trên lầu cao hay trên một cao điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa? Cấu trúc không gian hai điểm mút "cận - viễn" là một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức hoạ cổ Trung Hoa. Lý Bạch đã vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một chỉnh thể nghệ thuật hoàn bài Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng hay nhấtHai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp dòng sông, cánh buồm, bầu trời là hình ảnh của Lý Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa...Cánh buồm đơn côi, lẻ loi cô phàm xa dần, mờ dần viễn ảnh rồi mất hút vào trời xanh, vào cuối chân trời xa bích không tận. Hay tầm lòng "Thi tiên" với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương... như những con sóng gối lên nhau, đưa tiễn con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang? "Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lý Bạch. Dòng sông càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết....Lí Bạch tả về cái buồn của sự li biệt, nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khoáng khi ông miêu tả cái hùng vĩ của thiên nhiên". Trần Xuân Đề"Cô phàm viễn ảnh bích không tậnDuy kiến Trường Giang thiên tế lưu"Bóng buồm đã khuất bầu khôngTrông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là "cô phàm viễn ảnh". Cái tâm cảnh của Lí Bạch được diễn tả bằng hai chữ "duy kiến" - chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế phát triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên Tràng An, Dương Châu, Thành Đô Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý Bạch "duy kiến" chiếc "cô phàm" của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong "bầu trời xanh biết". Chỉ sống với một tình bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái nhìn "duy kiến" dầu chưa dịch được hai chữ "cô" cô phàm, "bích" bích không tận nhưng Ngô Tất Tố đã lột tả được "điệu Đường", "hồn Đường" của nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của nhà thơ Lý BạchHoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng lăng là một trong những tuyệt tác về thơ thất ngôn tứ tuyệt của Lý Bạch Vừa cụ thể vừa phổ quát cho muôn đời về nỗi buồn tống biệt và ức hữu. Cấu trúc không gian xa - gần cận - viễn, lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm, ngôn ngữ, trang nhã, gợi cảm, hàm súc... đó là những yếu tố nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp văn chương và cốt cách của bài thơ này. Bài thơ đã phản ánh một tâm hồn đẹp, một tình bạn đẹp của Lý Bạch, cũng là của những tao nhân mặc khách đời BÀI 1-Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là một nội dung văn mẫu mà các em cần tham khảo. Để bổ sung thêm kiến thức, các em có thể tìm hiểu thêm Soạn bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng cùng với phần Tìm thêm những bài ca dao nói về nỗi nhớ người yêu, về cái khăn... từ đó có thể học tốt môn Ngữ Văn Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, mẫu số 2Những cuộc tiễn đưa bao giờ cũng để lại trong lòng người đi, kẻ ở những ấn tượng và kỉ niệm khó quên. Trong xã hội xưa, khi điều kiện đi lại và trao đổi thư từ còn rất khó khăn, những cuộc chia tay càng dễ để lại cho đôi bên nhiều nỗi nhớ nhung, lo âu thấp thỏm. Đó là những lí do giải thích vì sao "thơ tống biệt", nói đầy đủ hơn là thơ "tống hành tặng biệt" thơ tiễn chân và thơ từ biệt, chiếm một tỉ lệ khá cao trong văn học cổ điển. Lí Bạch là một người giao thiệp rất rộng, tính tình hồn nhiên cởi mở, suốt đời đi lại xê dịch nên tác phẩm viết về đề tài tiễn biệt chiếm tỉ lệ rất cao trong sự nghiệp thơ văn của ông. Trong đa số trường hợp, Lí Bạch xuất hiện với tư cách người đưa tiễn. Có đến 150 bài thơ mà đề thơ mở đầu bằng chữ "tống" hay "biệt".Trong hơn 150 bài văn thơ "tống hành tặng biệt" nói trên, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng được xem là tác phẩm hay nhất. Nêu bức tranh toàn cảnh là điều cần để thấy vị trí của bài thơ sẽ phân tích trong thư tống biệt của Lí BạchCố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.Bạn từ lầu Hạc lên đường,Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòngỞ hai câu đầu, nhà thơ thường chỉ tường thuật một cách giản đơn hoàn cảnh hoặc nguyên do sự việc. Ngôn từ không chỉ bình dị tự nhiên mà lại còn sát hợp. Các dòng sông lớn ở Trung Quốc thường chảy theo hướng tây - đông, Hoàng Hạc lâu lại ở phía trên dòng nên đặt trạng ngữ "tây" trước động từ "từ", dùng động từ "há" trước Dương Châu là rất chuẩn xác. Động từ "từ" từ giã, từ biệt được sử dụng khá đắt, mang sắc thái biểu cảm và có tác dụng gợi cảm cao. Tác giả nói mình đưa tiễn "cố nhân" song không nói cố nhân từ giã mình mà lại nói "từ biệt lầu Hoàng Hạc". Như vậy, vừa kết hợp xác định địa điểm đưa tiễn, vừa đem lại cho bản thân hình ảnh lầu Hoàng Hạc một ý nghĩa hoán dụ, lại vừa gợi cho độc giả liên tưởng tới động tác, tâm tư của cả người đi, kẻ ở sau khi tiễn bạn ở bến sông, có lẽ Lí Bạch đã vội dời chân lên tít lầu cao để tiếp tục ngóng theo và Mạnh Hạo Nhiên, sau khi lên thuyền, có lẽ cũng đang ngước trông lên lầu cao tiếp tục vẫy tay từ tích bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng để thấy tình bạn cảm động giữa Lí Bạch và Mạnh hạo NhiênHai câu đầu đã được người xưa gọi là "lệ cú" câu đẹp, danh cú, song ai cũng thừa nhận hai câu sau mới là linh hồn của bài thơ. Hầu hết hai câu kết ở những bài thơ thuộc đề tài tống biệt của Lí Bạch đều dùng cảnh để biểu hiện tình dụng cảnh kết tình song thủ pháp rất đa dạng. So sánh, nhân cách hóa, đồng nhất tình và cảnh là những thủ pháp hay được sử tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng, lòng nhà thơ cũng nao nức xao động, song rung động theo một kiểu khác và được biểu hiện hoàn toàn câu thơ mở đầu nói tới người ra đi Mạnh Hạo Nhiên và tường thuật sự việc nêu lên đầy đủ các yếu tố của một cuộc đưa tiễn song trong đó vẫn chứa đựng bao niềm lưu luyến của người đưa bao lâu sau khi rời khỏi quê hương, Lí Bạch đã kết giao với Mạnh Hạo Nhiên, nhà thơ tiền bối, nhà thơ hơn mình đến hơn chục tuổi và bấy giờ danh tiếng đã lừng lẫy. Lí Bạch luôn nói về người bạn vong niên ấy với tất cả sự tôn kính và ngưỡng mộNgô ái Mạnh phu tửPhong lưu thiên hạ văn.Ta yêu Mạnh phu tửĐã nổi tiếng phong lưu khắp thiên hạMối quan hệ đặc biệt thân tình ấy đã thểhiện đầy đủ, sinh động qua chỉ một từ "cố nhân". Lí Bạch là "chủ" tiễn khách song không phải là tiễn khách tại nhà mình, quê mình, thậm chí cũng không phải là nơi nhiệm sở như trường hợp Bạch Cư Dị ở Tì bà hành mà là tiễn khách nơi đất khách, ở một điểm dừng chân trên bước đường ngao du, hơn nữa lại là một thắng tích nổi tiếng gắn với những truyền thuyết từng làm xao động tâm hồn bao thế hệ. Cuộc tiễn chân diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, trong không khí cực kì phồn vinh của xã hội Thịnh Đường. Bạn ra đi giữa một ngày xuân đẹp tam nguyệt, yên hoa, bạn đi về Dương Châu, thành phố phồn hoa nổi tiếng nhất của cả vừng Giang Nam đương thời mà Lí Bạch trước đó đã từng đặt chân tới. Cho nên, qua lời thơ bề ngoài có vẻ như trung tính, đạm bạc, ta không chỉ thấy phút giây bịn rịn của buổi tiễn đưa mà còn thấy sự nao nức của người đưa phàm viễn ảnh bích không tậnDuy kiến trường giang thiên tế lưu.Bóng buồm đã khuất bầu không,Trông theo chỉ thấy bóng sông bên trời.Trong hai câu thơ này tình đã hòa vào cảnh. Vô tình củaLý Bạch ở lầu Hoàng Hạc lúc tiễn MạnhHạo Nhiên không gì có thể đưa raso sánh, nó không thể so sánh với sông Trường Giang, không thể so sánh với bầu trời. Hay nói chuẩn xác hơn, cả sông Trường Giang, cả bầu trời đều không thể sosánh với nó mà nó hòa tan man mác vào cảbầu trời mông mênh, vào cả dòng sông bất tận, vào cả vũ trụ bao la vì cuối cùng cả bầu trời và dòng sông cũng đã hòa nhập làm một! Đáng chú ý là hai câu thơ đã vẽ ra một cảnh tượng mênh mông song đồng thời cũng khắc họa được những đường nét tinh tế. Từ bản thân "chiếc buồm cô độc", đến "bóng" của nó, đến bóng "xa" ... xa dần của nó, cho đến lúc nó mất hút vào bầu trời bát ngát là cả một quá trình, quá trình chuyển dịch ngày càng xa của con thuyền và quá trình ngóng trông theo vời vợi của cặp mắt người đưa tiễn. Thuyền đã mất hút song người tiễn đưa vẫn còn đứng đó, trơ vơ, đơn côi trên lầu Hoàng Hạc. Chiếc buồm hẳn là màu trắng, vệt trắng rồi điểm trắng ấy, dưới bầu trời biếc, trên dòng nước mùa xuân trong xanh hẳn là "mục tiêu" dễ thấy, dễ tăng cường thị lực Lí Bạch. Song quan trọng hơn là từ phía Lí Bạch, dù ở thời Thịnh Đường thuyền bè đi lại trên sông Trường Giang tấp nập như lá tre, tất cả thị lực của Lí Bạch chỉ đặt vào ở một điểm duy nhất đó mà thôi!Hai câu cuối, bên ngoài như vẫn tiếp tục nói về người ra đi song thực chất đã chuyển sang nói tâm tình người ở lại. Bên ngoài như là thơ tả cảnh thuần túy - mà xét về yêu cầu tả cảnh cũng đạt mức xuất sắc - song thực chất là tả súc khêu gợi, ý tại ngôn ngoại, lời cạn ý sâu, lấy cảnh nói tình, từ nhỏ thấy lớn... tất cả những đặc trưng thi pháp ấy của thơ Đường nói chung, của thơ tuyệt cú nói riêng, chúng ta đều có thể tìm thấy sự thể hiện mẫu mực ở Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng ..., của Lí Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, mẫu số 3Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Trung Quốc ông có rất nhiều những tác phẩm hay và để lại cho người đọc nhiều hình ảnh mang giá trị rất đặc sắc nó cũng thể hiện được tình yêu thơ ca của ông, tiêu biểu đó là bài hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng thơ đã thể hiện được một tình bạn sâu sắc qua đó nó thể hiện được tình yêu của tác giả đối với những người bạn của mình, đứng trên lầu hoàng hạc để tiễn người bạn thân của mình đi, đó là những nỗi buồn day dứt làm cho tâm hồn của tác giả đang phải mang những nỗi buồn đó là nỗi buồn về tình bạn xa cách và không gian địa lý càng xa thì sự nhớ thương tới người bạn của mình càng lớn. Tiễn bạn lên đường tác giả đã đang có những cảm giác thật buồn và nó mang một nỗi buồn xa xăm, khi gặp nhau chưa có thời gian nói với nhau nhiều câu chuyện đã phải xa nhau, niềm vui khi đón bạn trở về, và nỗi buồn khi phải tiễn bạn đi, người đi sẽ có những cảm giác tiếc nuối, và người ở lại thì có những nỗi buồn man buồn man mác trong tâm hồn của tác giả đã thể hiện được những nỗi niềm sâu kín trong lòng của tác giả, tác giả đang có những cảm xúc rất đặc biệt trong cuộc đưa tiễn này, một hình ảnh về một sự chia ly đã xuất hiện trong tác giả, những nỗi buồn đó đã mang đậm những nét đặc sắc trong tâm hồn của tác giảBạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây,Tháng ba hoa khói, xuống Dương chiếc buồm đơn màu xanh mất hút,Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên cũ là những người bạn đã gắn bó với nhau trong khoảng thời gian khi còn bên nhau, khi đón tiếp trên hoàng hạc và sự tiếp đón đó thật nồng hậu, cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc, không thể nào có thể bền lâu và kéo dài mãi được dù tình cảm đó có gần gũi thì những tình cảm đó chỉ mang trong lòng và mỗi người cần trân trọng những tình cảm và khoảnh khắc ấy. Sự yêu thương và quý mến nhau đã làm cho cuộc chia ly này có những phần rất níu kéo, khi tiễn người bạn của mình lên đường tại lầu hoàng hạc tác giả đang có những cảm giác buồn và nỗi buồn đó đã man mác và cũng làm cho tâm hồn của tác giả có những nỗi nhớ mong về người bạn của tháng ba là mùa hoa khói, mùa của sự chia ly, trong không gian cao của lầu Hoàng Hạc tác giả đã đưa mắt nhìn xa xăm nhìn những cánh thuyền mãi đi vào không gian và xa khỏi tầm mắt của tác giả, tác giả đã thể hiện những điều đó qua những hình ảnh sinh động đó là cánh thuyền trôi lênh đênh trên dòng sông, và mãi mãi xa khỏi tầm mắt của người bạn ở lại, nhìn theo những cánh thuyền đó cũng mãi xa đi. Tạm biệt tại lầu Hoàng Hạc, tác giả đã thể hiện tình cam của mình đối với người bạn hữu, khi hai người gắn bó đó là tình cảm của sự yêu thương và quý trọng tình cảm của bạn bè đó là một tình cảm vô cùng thiêng liêng và nó gợi ra cho tác giả những tình cảm và những cảm xúc về người ở mẫu Phân tích Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý BạchTình bạn bè trong tác giả đã thể hiện những nỗi buồn man mác giữa người đi và người ở lại, người ở lại đứng trước lầu Hoàng Hạc tiễn bạn ra đi nhìn sự ra đi của bạ mà tâm hồn có những cảm giác trống rỗng và nó làm cho tâm hồn của tác giả như có điều gì đó mờ nhạt và không còn vui tươi khi đón bạn về nữa, nhìn từ trên cao dõi theo từng hành động của người bạn của mình từ những chi tiết đầu tiên khi bạn ra đi đứng trên chiếc thuyền giữa dòng nước mênh mông, mỗi lúc chiếc thuyền lại trôi đi, tác giả vẫn đưa cặp mắt ngắm nhìn nó nhưng hình ảnh chiếc thuyền ngày càng xa xăm nó đi vào sâu thẳm và khuất bóng điều đó làm cho tác giả tuyệt vọng, nỗi buồn lại được dâng lên giờ đây chỉ còn thiên nhiên và con người thì mãi ra đi, không còn những hình ảnh về sự gắn bó giữa tình bạn nữa tình cảm đó chỉ còn trong không gian rộng lớn đó tác giả chỉ còn thấy hình ảnh dòng nước trên sông Trường Giang vẫn chảy vẫn trôi nhẹ nhẹ nhưng hình ảnh chiếc thuyền đã không còn, tác giả đã sử dụng từ mất hút để thể hiện những hình ảnh về đoàn thuyền đã ra đi và không còn trong không gian và trong tầm ngắm của tác giả nữa, mất hút đã thể hiện nó không còn hiện hữu trong tâm trí hay trong mắt của tác giả nữa, đứng trên một không gian cao như lầu Hoàng Hạc dường như có thể ngắm được tất cả mọi sự vật nhưng nay không còn nhìn thấy chiếc thuyền trở người bạn của mình nữa, tác giả chú ý từng bước di chuyển của nó, nhưng mỗi múc nó lại ra xa, trôi nhẹ trên một không gian rộng lớn của dòng sông Trường Giang rộng lớn hòa vào tâm trạng của tác giả đang buồn và có cảm giác choáng váng khi đứng trên một không gian rộng lớn đó, tác giả đã thể hiện và để lại cảm xúc của mình qua sự nhớ thương, một tình cảm gắn bó và tình bạn đó sẽ là mãi mãi, tác giả buồn khi người bạn thân của mình đi, dường như mỗi cuộc chia tay nào cũng đều rất buồn và cũng để cho tác giả có những nỗi nhớ và có cảm giác tuyệt vọng và nhớ nhung nhiều điều về hình ảnh người bạn của chia ly ở đây thật rộng lớn, tác giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên rộng lớn để nói về tâm trạng của chính mình, mỗi khi nhìn vào dòng nước mênh mang đó tác giả lại có cảm giác nhớ thương và mong sẽ có ngày sớm gặp lại người bạn thân của mình, tiễn trên lầu Hoàng Hạc một lầu có vị trí cao, với dịp tháng ba của sự chia ly, nỗi buồn của sự chia ly đã tác động rất lớn đến tâm hồn của tác giả, những hình ảnh đó đã mang đậm về sự chia ly và nỗi buồn thầm kín sâu sắc của tác giả. Không sử dụng những chi tiết hoa mĩ những tác giả đã làm cho người đọc hiểu được nỗi buồn của sự chia ly, nỗi buồn đó thật lớn lao và nó mang một âm điệu nhẹ nhàng và cũng thể hiện được sâu sắc tình cảm của tác giả vào thuyền xa xôi kia đã thể hiện niềm tin yêu của tác giả về một tình bạn vĩnh cửu của tác giả có niềm tin lớn về tình bạn này, nó sẽ vĩnh cửu và tác giả sẽ nhớ thương và quý trọng tình bạn này, hình ảnh hoa khói đã thể hiện sự nhớ thương đó, hình ảnh về hoa khói là hình ảnh về khói bếp hình ảnh này cũng gợi nhớ sự nhớ thương, tác giả đã thể hiện được tình yêu thương của mình trong đó, mượn hình ảnh hoa khói để nói về sự nhớ thương của mình, nó là những nỗi niềm của tác giả đã thể hiện trong đó, tác giả sử dụng hình ảnh hoa khói để nói về nỗi nhớ thương của mình, dường như những hình ảnh đó đã mang đậm và thấm nhuần trong thơ ca của người Trung Quốc xưa, hình ảnh tháng ba của hoa khói của đất Dương Châu, những hình ảnh đó vang dội trong tâm hồn của tác giả. Người bạn đã về thăm vùng đất Dương Châu và giờ đang ra đi về vùng đất mới và những người bạn cũ đã ở lại và cũng đang tiễn đưa người bạn đi trên lầu Hoàng không gian rộng lớn đó làm cho tác giả lại có những cảm xúc buồn thương và nhớ nhung về tình bạn của mình, tình cảm đó là vô cùng thiêng liêng, không gian rộng lớn cũng tác động đến tâm hồn của tác giả qua đó thể hiện nhớ thương và những nỗi buồn man mác ở đây là một người bạn đi và một người ở, dù không muốn xa nhau nhưng do hoàn cảnh họ vẫn phải xa nhau, xa nhau có những nỗi nhớ và những nỗi niềm mong ước sẽ sớm gặp lại nhau, sự đưa tiễn đã thể hiện và là chủ đề chủ đạo trong tác phẩm này, và hình ảnh buồn ảnh buồn và tâm trạng buồn bạn của của tác giả đã thể hiện sâu sắc trong tác phẩm này và nó cũng thể hiện không gian rộng lớn đang tác động đến tâm hồn của tác giả, tác giả đang hình dung và những hình ảnh buồn thương về sự tiễn đưa bạn trên lầu Hoàng Hạc, những hình ảnh chiếc thuyền hun hút xa săm và mất hút trong không gian đã tác động lớn đến tâm hồn của tác giả, đây là một cuộc đưa tiễn đầy buồn thương, và những tiếc nuối của tác giả về người bạn của Tìm hiểu về bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng cũng như tình bạn cảm động của Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên, các em có thể tham khảo thêm Khái quát đặc sắc về nội dung và nghệ thuật bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng, Sơ đồ tư duy bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Cảm nhận về tình bạn giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch.
hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng