bình luận bản án hình sự

So sánh Sách - Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung 2017 (phần chung) - GIÁ RẺ chỉ từ ₫154400 • BeeCost cập nhật 7 phút trước. Beecost.vn 1 phút trước 829 Like. Trần Gia Hưng. Trần Gia Hưng tốt nghiệp trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn (THPL) – Trước việc UBND TP Thanh Hóa có Công văn báo cáo tình hình thực hiện Dự án hệ thống tiêu úng Đông Sơn đang bị chậm tiến độ và có đề nghị cập nhật kinh phí của 4 dự án vào dự án tiêu úng Đông Sơn, ngày 6/10 UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành văn bản không thống nhất việc đề nghị cập nhật toàn TÓM TẮT NỘI DUNG BẢN ÁN Khoảng 19h ngày 01/02/2020, Nguyễn Vũ L., Nguyễn Văn Ho., Nguyễn Trí N., Võ Đình K., Võ Văn Đ., Nguyễn Văn Thô., Nguyễn Đức H., Nguyễn Văn Hu., Nguyễn Anh T., Nguyễn Thanh H., Nguyễn Thị T., Nguyễn Văn A., Nguyễn Anh V., Nguyễn Trung H., Nguyễn Văn Th., Nguyễn Văn Tr. đến quán cà phê B. do Nguyễn Bá Người dân di chuyển trên đường phố tại Tokyo, Nhật Bản. (Ảnh: Kyodo/TTXVN) Ngày 19/10, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định hạ cảnh báo đi lại tới 76 quốc gia/vùng lãnh thổ từ cấp độ 2 trên thang cảnh báo 4 cấp xuống cấp độ 1, tức là chỉ khuyên công dân Nhật Bản tới các quốc gia/vùng lãnh thổ này phải Việc chứng minh, làm rõ các vấn đề để giải quyết vụ án hình sự rất quan trọng Nhiệm vụ của việc giải quyết vụ án hình sự là phát hiện và xử lý kịp thời tội phạm, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người phạm tội, các biện pháp xử lý đối với người phạm tội có căn Frühstückstreffen Für Frauen In Deutschland Ev. – Điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 tương ứng điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS 2015.– Khoản 2 Điều 93 BLHS 1999 tương ứng khoản 2 Điều 123 BLHS 2015.– Điều 20 BLHS 1999 tương ứng Điều 17 BLHS 2015.2. Sự cần thiết phải công bố án lệHiện nay, nhận thức về các quy định của Pháp luật có liên quan nêu trên còn khác nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử thiếu thống nhất. Đặc biệt, nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong các vụ án có đồng phạm. Có quan điểm cho rằng, trong vụ án có đồng phạm thì người thực hành phạm tội gì, theo khung hình phạt nào thì các đồng phạm khác cũng phải bị truy tố, xét xử theo tội danh và khung hình phạt điểm trên là không phù hợp với quy định của pháp luật về đồng phạm đồng phạm giản đơn và đồng phạm có tổ chức. Bởi lẽ, mỗi người đồng phạm gắn với những tình tiết định khung riêng, nên không thể buộc đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết định khung hình phạt riêng cho người thực hiện tội phạm, trừ trường hợp những người đồng phạm có chung tình tiết định lệ hình sự số 17 ra đời là sự giải thích thống nhất để áp dụng về nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án có đồng phạm. Do vậy án lệ này ra đời là cần Nội dung vụ án hình sự và tình huống án lệ* Nội dung vụ ánTheo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Sau khi chứng kiến việc bố vợ là ông Dương Quang H bị các con của ông Dương Quang Q đánh, Nguyễn Văn H là người trực tiếp gọi điện báo cho Trần Quang V biết việc ông H bị đánh. Trong lúc ăn nhậu cùng V và Phạm Nhật T vào tối ngày 19-01-2015, biết V và T có ý định đi đánh ông Q để trả thù , H nói “Ba bị đánh thương lắm, chừ còn đau”, làm củng cố ý thức, quyết tâm của V trong việc đi đánh ông Q. H cũng là người chỉ nơi ở, đặc điểm nhận dạng của ông Q cho V và T biết để V và T có thể thực hiện hành vi đánh ông Q. Khi nghe V và T bàn bạc kế hoạch đi đánh ông Q, H không can ngăn mà còn nói “Nếu đánh thì đánh dằn mặt thôi”, thể hiện sự thống nhất ý chí về việc đánh ông Q. Sau đó, H bỏ về trước. Thực tế, Trần Quang V đã dùng mã tấu chém liên tiếp vào vùng đầu, mặt, chân, tay ông Q làm ông Q gục ngay tại chỗ. Do mọi người can ngăn và được đưa đi cấp cứu kịp thời nên ông Q không chết là ngoài ý muốn chủ quan của V. Sau khi chém ông Q, V đã gọi liên tiếp ba cuộc điện thoại cho H để hỏi về thương tích của ông Q. Mặc dù, H không biết trước việc V dùng mã tấu chém liên tiếp vào những vùng trọng yếu trên cơ thể ông Q, có thể tước đoạt tính mạng của ông Q nhưng H đã thống nhất ý chí với V và T trong việc đánh ông Q, chấp nhận hậu quả xảy ra. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H đồng phạm với Trần Quang V và Phạm Nhật T về tội “Giết người” là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” là không đúng, bởi vì Trong vụ án này Trần Quang V và Phạm Nhật T là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q; chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với các con của ông Q mà V và T đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của ông Q nên chỉ hành vi phạm tội của V và T “Có tính chất côn đồ”, còn Nguyễn Văn H không trực tiếp tham gia đánh ông Q mà giúp sức cho V và T trong việc đánh ông Q nên hành vi phạm tội của H không “Có tính chất côn đồ” mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999.* Tình huống án lệ“…Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” là không đúng, bởi vì Trong vụ án này Trần Quang V và Phạm Nhật T là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q; chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với các con của ông Q mà V và T đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của ông Q nên chỉ hành vi phạm tội của V và T “Có tính chất côn đồ”, còn Nguyễn Văn H không trực tiếp tham gia đánh ông Q mà giúp sức cho V và T trong việc đánh ông Q nên hành vi phạm tội của H không “Có tính chất côn đồ” mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999”.4. Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệVụ án hình sự cụ thể được nêu trong án lệ số 17/2018/AL, V và T là người thực hiện hành vi phạm tội với tình tiết “có tính chất côn đồ”, nên chỉ có V và T xét xử theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS là đúng. Còn đối với H là người đồng phạm giúp sức, hành vi giúp sức của H không có tình tiết có tính chất côn đồ, cũng không có tình tiết định khung nào khác tại khoản 1 Điều 93 BLHS. Do đó, đối với H phải áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS để xét xử mới đúng pháp từ ngày án lệ có hiệu lực 03/12/2018, các vụ án hình sự về tội giết người mà có đồng phạm với tình tiết tương tự như vậy thì phải áp dụng ALHS số 17/2018 để xét số 17/2018 góp phần thống nhất nhận thức về nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của các đồng phạm trong vụ án hình sự. Đồng phạm phải chịu TNHS về một tội phạm mà họ thống nhất thực hiện, tuy nhiên, không phải mọi trường hợp họ đều phải chịu TNHS theo tình tiết định khung riêng của người thực là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info Bảng lương của quân đội, công an từ 01/7/2023 Bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản buộc ngân hàng trả lại tiền gửi tiết kiệm cho khách Bản án về khiếu kiện quyết định truy thu thuế tiền ảo không phải là đối tượng chịu thuế GTGT và thuế TNCN Bản án về tranh chấp lao động bảo hiểm công ty chậm đóng bảo hiểm cho NLĐ Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con có yếu tố nước ngoài Bản án về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân Bản án về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động Bản án về tranh chấp yêu cầu trả tiền cọc và phạt cọc hợp đồng mua bán nhà Bản án về khiếu kiện quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất và quyết định cưỡng chế thu hồi đất Bản án về tội làm nhục người khác Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do xây dựng liền kề Bản án về tội giết người, hiếp dâm và cướp tài sản Bản án về tội cho vay lãi nặng Quyết định về tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự Bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho QSDĐ và đòi giá trị tài sản phát sinh từ hợp đồng tặng cho Bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ của tác phẩm truyện tranh Tất cảDân sựHình sựHành chínhLao độngKinh tếHôn nhân gia đìnhTừ khóa lao động,10/2018/HS-ST,trộm cắp tài sản,.... Thời gian ban hành đến Đã cập nhật 265979 bản án 1. Bản án sơ thẩm 223558 2. Bản án phúc thẩm 42223 3. Quyết định giám đốc thẩm 200 4. Án lệ 63 5. Bản án tiếng Anh 266 Video Pháp Luật Đã Có CCCD Gắn Chíp Thì Có Cần Tài Khoản Định Danh Điện Tử Không? TVPL Tiện ích bản án Thời gian giải quyết vụ ánTính án phí Biểu mẫu tố tụngLuật sư tư vấn Tai nạn lao động ngoài giờ làm việc Tuyển tập Bản Án Tuyển tập các bản án về tranh chấp trợ cấp thôi việc - 6 ngày trước Tuyển tập các bản án về tội không tố giác tội phạm - 1 tháng trước Tuyển tập bản án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản - 1 tháng trước Tuyển tập các bản án về tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác - 1 tháng trước Tuyển tập bản án về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp - 1 tháng trước Xem thêmBình luận Bản Án Đòi lại tiền gửi bị Ngân hàng chiếm đoạt - 2 tháng trước Chịu trách nhiệm liên đới đối với tài sản do vợ/chồng mất để lại - 2 tháng trước Đòi lại phần tài sản thừa kế theo pháp luật - 2 tháng trước Đòi lại đất khi bị người khác lấn chiếm trong thời gian dài - 2 tháng trước Vợ, chồng có được thỏa thuận lại mức cấp dưỡng cho con sau ly hôn? - 3 tháng trước Xem thêmThông tin pháp luật Các trường hợp được thu hồi đất nông nghiệp để bán đấu giá? - 1 ngày trước Các loại thuế phải nộp khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất? - 1 ngày trước Hướng dẫn cách tra cứu mã số thuế hộ kinh doanh - 2 ngày trước Những hành vi nên tránh để không bị xử phạt về thuế và hóa đơn - 2 ngày trước Cách xử lý hóa đơn điện tử đã lập có sai sót theo Công văn 1647/TCT-CS - 3 ngày trước Xem thêmXem nhiều nhất Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, yêu cầu hỗ trợ lãi suất và bồi thường thiệt hại tài sản số 08/2022/KDTM-PT - 6 tháng trước 08/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Quyết định giám đốc thẩm về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính việc cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trật tự đô thị và yêu cầu đòi bồi thường do hành vi cưỡng chế gây ra số 04/2018/HC-GĐT - 3 tháng trước 04/2018/HC-GĐT - Giám đốc thẩm - Hành chính Quyết định giám đốc thẩm về tranh chấp trả thưởng tiền xổ số kiến thiết số 239/2022/DS-GĐT - 3 tháng trước 239/2022/DS-GĐT - Giám đốc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 02/2022/DS-PT - 2 tháng trước 02/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp di sản thừa kế di chúc chung của vợ chồng sau đó người vợ thay đổi di chúc số 01/2022/DS-PT - 3 tháng trước 01/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sựXem thêm Dân sự Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 333/2022/DS-PT - 1 ngày trước 333/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 331/2022/DS-PT - 1 ngày trước 331/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp quyền lối đi qua và quyền sử dụng đất số 328/2022/DS-PT - 1 ngày trước 328/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra công an xã làm thất lạc hồ sơ số 21/2022/DS-PT - 3 tháng trước 21/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã bán phát mãi cho người khác đất số 71/2021/DS-PT - 4 tháng trước 71/2021/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sựXem thêm Hình sự Bản án về tội cố ý gây thương tích số 57/2023/HS-PT - 1 ngày trước 57/2023/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Bản án về tội cố ý gây thương tích số 57/2023/HS-PT - 1 ngày trước 57/2023/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Bản án về tội tham ô tài sản số 56/2023/HS-PT - 1 ngày trước 56/2023/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Bản án 37/2017/HSST ngày 21/09/2017 về tội đưa hối lộ - 4 năm trước 37/2017/HSST - Sơ thẩm - Hình sự Bản án về tội làm môi giới hối lộ, đưa hối lộ và nhận hối lộ để trốn nghĩa vụ quân sự số 222/2017/HSPT - 5 năm trước 222/2017/HSPT - Phúc thẩm - Hình sựXem thêmBản án nổi bật Bản án 720/HNGĐ-PT ngày 15/08/2019 về tranh chấp xác định cha cho con, cấp dưỡng nuôi con - 3 năm trước 720/HNGĐ-PT - Phúc thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra công an xã làm thất lạc hồ sơ số 21/2022/DS-PT - 3 tháng trước 21/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án 37/2017/HSST ngày 21/09/2017 về tội đưa hối lộ - 4 năm trước 37/2017/HSST - Sơ thẩm - Hình sự Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã bán phát mãi cho người khác đất số 71/2021/DS-PT - 4 tháng trước 71/2021/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tội làm môi giới hối lộ, đưa hối lộ và nhận hối lộ để trốn nghĩa vụ quân sự số 222/2017/HSPT - 5 năm trước 222/2017/HSPT - Phúc thẩm - Hình sựXem thêm Hôn nhân gia đình Bản án về ly hôn số 84/2022/HNGĐ-ST - 4 ngày trước 84/2022/HNGĐ-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về ly hôn số 81/2022/HNGĐ-ST - 4 ngày trước 81/2022/HNGĐ-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về ly hôn số 80/2022/HNGĐ-ST - 4 ngày trước 80/2022/HNGĐ-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án 720/HNGĐ-PT ngày 15/08/2019 về tranh chấp xác định cha cho con, cấp dưỡng nuôi con - 3 năm trước 720/HNGĐ-PT - Phúc thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về tranh chấp chia tài sản sau ly hôn và yêu cầu hủy văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng số 31/2022/HNGĐ-PT - 1 tháng trước 31/2022/HNGĐ-PT - Phúc thẩm - Hôn Nhân Gia ĐìnhXem thêm Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 194/2022/KDTM-PT - 8 ngày trước 194/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 190/2022/KDTM-PT - 8 ngày trước 190/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển giao quyền thu phí số 183/2022/KDTM-PT - 8 ngày trước 183/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 02/2022/KDTM-ST - 02/2022/KDTM-ST - Sơ thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ tên miền số 28/2019/KDTM-ST - 3 năm trước 28/2019/KDTM-ST - Sơ thẩm - Kinh tếXem thêm Lao động Bản án về tranh chấp chấm dứt hợp đồng lao động, bồi thường thiệt hại số 01/2022/LĐ-PT - 8 ngày trước 01/2022/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 835/2022/LĐ-PT - 8 ngày trước 835/2022/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động số 834/2022/LĐ-PT - 8 ngày trước 834/2022/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động hợp đồng thử việc số 01/2022/LĐ-ST - 10 tháng trước 01/2022/LĐ-ST - Sơ thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp chấm dứt hợp đồng lao động với đối thủ cạnh tranh số 420/2019/LĐ-PT - 4 năm trước 420/2019/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao độngXem thêm Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 214/2023/HC-PT - 8 ngày trước 214/2023/HC-PT - Phúc thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 126/2022/HC-ST - 10 ngày trước 126/2022/HC-ST - Sơ thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 39/2022/HC-ST - 10 ngày trước 39/2022/HC-ST - Sơ thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực hộ tịch số 01/2019/HC-PT - 4 năm trước 01/2019/HC-PT - Phúc thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định truy thu thuế tiền ảo không phải là đối tượng chịu thuế GTGT và thuế TNCN số 22/2017/HC-ST - 5 năm trước 22/2017/HC-ST - Sơ thẩm - Hành chínhXem thêmBản án Tiếng Anh Judgment no. 20/2022/HSST against escape while being estorted - 6 tháng trước 20/2022/HSST - Sơ thẩm - Hình sự Tiếng anh Judgment No. 612/2019/HS-PT on smuggling - 2 năm trước 612/2019/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Tiếng anh Judgment no. 54/2018/DS-ST dated 16/11/2018 on dispute over a service contract - 9 tháng trước 54/2018/DS-ST - Sơ thẩm - Dân sự Tiếng anh Judgment no. 76/2021/HNGD-ST on divorce dispute - 10 tháng trước 76/2021/HNGD-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Tiếng anh Judgment no. 709/2020/DS-PT dated july 28, 2020 on petition for declaring a notarized document - 1 năm trước 709/2020/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Tiếng anh Xem thêm Án lệ nổi bật Án lệ số 63/2023/AL về xem xét quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện - 3 tháng trước 63/2023/AL Án lệ số 57/2023/AL về hành vi gian dối nhằm tiếp cận tài sản trong tội “Cướp giật tài sản” - 3 tháng trước 57/2023/AL Án lệ số 60/2023/AL về thời hạn trả thưởng xổ số kiến thiết - 3 tháng trước 60/2023/AL Án lệ số 58/2023/AL về tình tiết định khung hình phạt tại điểm c khoản 3 Điều 244 của Bộ luật Hình sự - 3 tháng trước 58/2023/AL Án lệ số 61/2023/AL về chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi chưa thành niên - 3 tháng trước 61/2023/ALXem thêm Án lệ Thế giới Supreme Court Decision 2011Da64836 Decided April 26, 2013 about Confirmation, etc., of Domain Address Possession - 5 năm trước 2011Da64836 Supreme Court Decision 2011Da57869 Decided September 12, 2013 about Damages - 5 năm trước 2011Da57869 Supreme Court Decision 2011Da54631, 54648 Decided June 13, 2013 about Insurance Proceeds - 5 năm trước 2011Da54631 Supreme Court Decision 2011Da44276 Decided June 27, 2013 about Severance Pay, etc. - 5 năm trước 2011Da44276 Supreme Court Decision 2011Da39946 Decided November 28, 2013 about Wages - 5 năm trước 2011Da39946 - Soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm là công việc thường xuyên của Thẩm phán và những người được giao soạn thảo bản án. Bản án hình sự sơ thẩm là sản phẩm thể hiện kết quả toàn bộ hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi tuyên án. Thực tiễn cho thấy hiện nay việc viết bản án vẫn còn xảy ra nhiều sai sót. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm xin nêu một số nội dung nhằm hoàn thiện vấn đề viết bản án... Bản án hình sự sơ thẩm là văn bản tố tụng đặc biệt của Toà án nhân danh nước CHXHCN Việt Nam kết thúc hoạt động xét xử xác định bị cáo có tội hay không có tội quy định trong BLHS, xác định trách nhiệm pháp lý của bị cáo với Nhà nước cụ thể hoá bằng hình phạt quy định trong BLHS, xác định trách nhiệm của bị cáo với bị hại nếu có và các thành phần khác cụ thể hoá bằng mức bồi thường thiệt hại quy định trong BLDS. Bản án hình sự sơ thẩm khi được ban hành và có hiệu lực pháp luật thì những quyết định trong bản án đưa đến hậu quả pháp lý rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của những người bị buộc tội và những chủ thể khác có liên quan thể hiện tại Điều 31 Hiến Pháp, Điều 14 Luật tổ chức Tòa án nhân dân, các Điều 13, 14 BLTTHS. Vì vậy việc soạn thảo bản án nhằm phản ánh khách quan, toàn diện, đầy đủ vụ án là một yêu cầu rất quan trọng, thực tiễn cho thấy hiện nay việc viết bản án vẫn còn xảy ra nhiều sai sót. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm và các bản án xin nêu một số nội dung nhằm hoàn thiện vấn đề viết bản án hình sự sơ thẩm như sau Phần mở đầu. – Phải ghi đầy đủ tiền án, tiền sự của bị cáo. – Trường hợp bị hại chết thì trong phần đầu của bản án vẫn ghi căn cước của bị hại. Không ghi lý lịch của bị hại đã chết trước đại diện hợp pháp của bị hại. – Trước khi mở phiên tòa, gia đình bị cáo đã thỏa thuận và bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại. Tại phiên tòa, đại diện gia đình bị cáo không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền mà gia đình đã ứng ra để bồi thường thì không xác định đại diện gia đình bị cáo là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà xác định những người này với tư cách là người làm chứng. – Trường hợp bị hại nằm viện, được người thân chăm sóc và họ yêu cầu bồi thường tiền công chăm sóc thì trong bản án không xác định người chăm sóc này là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì khoản thu nhập thực tế của người chăm sóc bị hại trong thời gian điều trị được tính để bồi thường cho bị hại, do vậy cần xác định người chăm sóc cho bị hại là người làm chứng. – Đối với trường hợp “Việc vắng mặt của những người làm chứng trong vụ án không ảnh hưởng đến việc xét xử do Tòa án đã gửi giấy triệu tập hợp lệ” được xem xét giải quyết trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa và được ghi vào biên bản phiên tòa mà không ghi ở phần nhận định của Tòa án. – Trường hợp người mua tài sản sau khi biết số tài sản đã mua là tài sản trộm cắp và đã giao cho Cơ quan Công an, không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền đã mua tài sản thì cần xác định người mua tài sản đó là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đồng thời không tịch thu số tiền mà người mua tài sản không đòi của bị cáo, vì đây là quan hệ dân sự. Phần nội dung. Khi viết phần nội dung vụ án không ngắt đoạn theo từng vấn đề vì rất khó xác định rõ hành vi phạm tội của bị cáo. Ghi tóm tắt hành vi phạm tội của bị cáo được mô tả trong bản cáo trạng, mặc dù là tóm tắt, nhưng phải thể hiện được đầy đủ về thời gian, không gian, địa điểm thực hiện tội phạm, diễn biến hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, thủ đoạn của người phạm tội và hậu quả của tội phạm; ý kiến, quan điểm của KSV về nội dung truy tố bị cáo theo cáo trạng ghi rõ số, ngày, tháng, năm của bản cáo trạng, hoặc quyết định truy tố, tên VKS truy tố ban hành bản cáo trạng, hành vi của bị cáo theo tội danh mà VKS truy tố; tội danh điểm, khoản, điều của BLHS và mức hình phạt, hình phạt bổ sung, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS theo các điểm, khoản, điều của BLHS; biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà VKS đề nghị áp dụng đối với bị cáo tại phiên tòa; quan điểm xử lý vật chứng, nghĩa vụ chịu án phí của bị cáo và các đương sự…mà VKS đề nghị áp dụng đối với bị cáo và các đương sự. Lời bào chữa tranh luận của người bào chữa, của bị cáo; ý kiến của bị hại, những người tham gia tố tụng và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập. Ngoài ra các chứng cứ khác như lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết quả giám định… cũng được ghi vào phần này để phục vụ cho việc nhận định của HĐXX ở phần sau. Phần Nhận định của Tòa án. – Bản án đã trình bày nội dung của vụ án thì ở phần nhận định của Tòa án không trình bày lại toàn bộ nội dung đã được trình bày ở phần trước làm bản án rất dài, không cần thiết. Chỉ cần nhận định rồi kết luận tóm tắt hành vi đặc trưng phạm vào điểm, khoản, điều luật nào của BLHS trừ khi bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội mới phải nhận định cụ thể từng nội dung. – Phần nhận định của Tòa án không ghi “Nhận định của HĐXX” mà phải ghi là “Nhận định của Tòa án”. Các đoạn văn ở phần nhận định của Tòa án phải đặt trong dầu ngoặc vuông [] như hướng dẫn về mẫu bản án của HĐTPTANDTC. – Khi cho bị cáo được hưởng án treo thì trong phần nhận định của Tòa án phải nhận định về thời gian thử thách đối với bị cáo Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo. – Trong phần nhận định của Tòa án phải xác định rõ đối tượng phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. – Trường hợp số tiền bồi thường của bị cáo nhiều hơn số tiền mà bị cáo chiếm đoạt của bị hại thì trong phần nhận định của Tòa án phải nhận định rõ việc thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo với bị hại nhiều hơn số tiền chiếm đoạt. – Trong phần nhận định của Tòa án phải nêu rõ việc bị cáo đã sử dụng vật chứng vào việc thực hiện hành vi phạm tội như thế nào để xử lý vật chứng trong phần quyết định của bản án. Phần quyết định. + Hình phạt. – Khi ghi các điều luật khác nhau thì ghi dầu ; giữa các điều luật. Ví dụ “Áp dụng khoản 1 Điều 134; Điều 17….”. – Đối với bị cáo áp dụng hành phạt tù nhưng cho hưởng án treo, thì trong phần quyết định của bản án ghi rõ tên và địa chỉ của cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; đồng thời ghi rõ trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi làm việc, cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Ngoài ra, cần tuyên hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định tại khoản 5 Điều 65 BLHS Xem Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo. – Quyết định của bản án phần tổng hợp hình phạt của nhiều bản án phải nêu cụ thể mức hình phạt của bản án mà bị cáo đã bị Tòa án xét xử trước đó. +Biện pháp tư pháp. – Trong quyết định phần bồi thường thiệt hại trường hợp bị cáo gây thiệt hại cho nhiều bị hại, không ghi tổng số tiền phải bồi thường cho tất cả những bị hại mà phải ghi số tiền bị cáo phải bồi thường cho từng bị hại. Ngoài ra phải ghi nhận cụ thể số tiền bị cáo phải bồi thường theo thỏa thuận, trong đó đã bồi thường được bao nhiêu, còn phải bồi thường bao nhiêu. – Trong vụ án đồng phạm, các bị cáo cùng gây ra thiệt hại tài sản thì cần áp dụng Điều 587 BLDS năm 2015 để tuyên trách nhiệm liên đới bồi thường đối với các bị cáo. Ngoài ra, cần tuyên số tiền cụ thể mà từng bị cáo phải bồi thường và số tiền còn phải bồi thường là bao nhiêu Chỉ liên đới bồi thường thiệt hại khi nhiều bị cáo cùng có sự thống nhất ý chí trong việc gây thiệt hại “Cùng gây thiệt hại”. Tại phiên tòa nếu có bị hại không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền chiếm đoạt của họ, thì Tòa án phải nhận định cụ thể số tiền mà những bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường là bao nhiêu để trừ đi, số còn lại phải bồi thường là bao nhiêu. – Trước khi mở phiên tòa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận được với nhau về phần bồi thường thiệt hại và đề nghị Tòa án ghi nhận việc bồi thường thiệt hại thì trong bản án không tính án phí dân sự sơ thẩm Xem Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. – Trường hợp bị cáo đã bồi thường xong thì trong phần quyết định về các biện pháp tư pháp của bản án không viện dẫn điều luật mà chỉ ghi nhận các bị cáo đã bồi thường. – Trước khi mở phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi hoàn số tiền thiệt hại, đại diện gia đình bị cáo chấp nhận yêu cầu của bị hại và đã nộp đủ số tiền yêu cầu thì trong phần quyết định của bản án về bồi thường thiệt hại không áp dụng các quy định của BLDS để buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại, trường hợp này, trong bản án chỉ cần ghi nhận bị cáo đã bồi thường theo yêu cầu của bị hại. – Đối với tiền cấp dưỡng thì trong phần quyết định cần tuyên rõ số tiền cấp dưỡng, cũng như bị cáo phải chịu tiền án phí dân sự không có giá ngạch đối với số tiền cấp dưỡng hàng tháng đó và tuyên lãi suất trả chậm đối với số tiền cấp dưỡng chậm trả. + Xử lý vật chứng. – Quyết định của bản án về xử lý vật chứng không nêu lại đặc điểm của vật chứng mà nội dung này được thực hiện tại phần Nhận đình của Tòa án. Đồng thời cần nêu rõ căn cứ vào Biên bản thu giữ vật chứng để giải quyết. + Án phí. Trong phần quyết định của bản án không tính toán phần án phí dân sự vì phần tính toán án phí được thực hiện tại phần nhận định của Tòa án. Một số nội dung khác – Trường hợp HĐXX quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án thì khi Nghị án phải thảo luận nội dung này Điều 326 BLTTHS năm 2015. – Trường hợp bản án tuyên trả lại tài sản của bị cáo đã bị kê biên cho bị cáo nhưng số tài sản này không phải là vật chứng thì chỉ tuyên trả lại tài sản mà không nêu cụ thể điều luật áp dụng. – Trong bản án không ghi “Dự kiến xử phạt bị cáo…”, vì Bản án đã được HĐXX thảo luận và thông qua tại phòng nghị án trước khi tuyên án. – Trường hợp bị cáo có hành vi gian dối để bị hại giao cho bị cáo tổng số tiền là đồng. Trước khi khởi tố vụ án, bị cáo đã trả cho bị hại số tiền đồng thì Tòa án không xét xử bị cáo chiếm đoạt tổng số tiền là đồng. – Trường hợp bị cáo không bị tạm giữ theo dội danh bị cáo đang bị xét xử mà bị tạm giữ theo tội danh khác do cơ quan tiến hành tố tụng ngoài Quân đội áp dụng thì trong bản án phải ghi rõ bị cáo bị tạm giữ theo tội danh cụ thể nào. – Đối với vụ án đồng phạm thì trong bản án phải cá thể hóa trách nhiệm hình sự của từng bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự, dân sự của từng bị cáo theo quy định tại Điều 58 BLHS. – Quá trình giải quyết vụ án, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa thì trong hồ sơ vụ án vẫn có Biên bản phiên tòa. – Vấn đề kiến nghị, sữa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý được lập thành văn bản riêng được đọc tại phiên tòa cùng với bản án hoặc gửi riêng cho cơ quan, tổ chức hữu quan mà không nêu trong bản án Điều 264 BLTTHS năm 2015. Soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm là công việc thường xuyên của Thẩm phán và những người được giao soạn thảo bản án. Bản án hình sự sơ thẩm là sản phẩm thể hiện kết quả toàn bộ hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi tuyên án. Vì vậy, chất lượng bản án phụ thuộc vào trình độ, bản lĩnh và kỹ năng nghiệp vụ của Thẩm phán và HĐXX. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác cải cách tư pháp giai đoạn hiện nay đòi hỏi mỗi Thẩm phán và những người giao soạn thảo bản án phải nắm chắc quy định của pháp luật, hồ sơ vụ án, thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để có những bản án hình sự thực sự công minh, khách quan, đúng quy định, thấu tình đạt lý. - Bản án nói chung và bản án hình sự sơ thẩm nói riêng do Tòa án ban hành nên là văn bản tố tụng tư pháp của Nhà nước nhằm điều chỉnh quan hệ pháp luật giữa Nhà nước với cá nhân, cơ quan, tổ chức. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm; công tác kiểm tra giám đốc án, cũng như nghiên cứu một số vụ án, chúng tôi thấy còn nổi lên một số tồn tại trong việc viết bản án. Về hình thức, bản án là một trong các “văn bản tố tụng” [1] của Tòa án được soạn thảo với mẫu thống nhất theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS. Việc soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm đảm bảo được các yêu cầu là một nội dung rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, nhất là hiện nay, việc công bố bản án là một yêu cầu bắt buộc. Đặc biệt là Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC cũng đã ban hành mẫu và hướng dẫn viết bản án hình sự sơ thẩm thống nhất trong toàn ngành. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm; công tác kiểm tra giám đốc án, cũng như nghiên cứu một số vụ án, chúng tôi thấy còn nổi lên một số tồn tại trong việc viết bản án. 1. Về thể thức bản án Theo thống nhất tại hội nghị trực tuyến tập huấn viết bản án năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao thì thể thức và kỹ thuật soạn thảo bản án được thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH 14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy còn có một số bản án viết chưa đúng cỡ chữ, tùy tiện viết hoa; viết hoa danh từ riêng chỉ tên người, viết hoa tên địa lý hoặc tên cơ quan, tổ chức...chưa đúng thậm chí ngay trong một bản án nhưng tồn tại hai cách viết khác nhau về cùng một nội dung. Ví dụ “Huân chương chiến sĩ vẻ vang” phải là Huân chương Chiến sĩ vẻ vang; hoặc “Thành phần hội đồng xét xử Sơ thẩm gồm có” phải là “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”... 2. Về nội dung của bản án Phần mở đầu Phần này phản ánh các nội dung theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLTTHS gồm Thông tin của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa; thời gian, địa điểm mở phiên tòa, xử công khai hay xử kín...Tuy phần này được xác định là mẫu thống nhất nhưng giữa các bản án được công bố cũng còn nhiều nội dung chưa thống nhất là - Phần tiêu đề ở góc trái bản án Có bản án in đậm nội dung “Bản án số 04/2020/HS-ST ngày... tháng... năm” có bản án lại in thường; có bản án ghi “Bản án số 04/2020/HSST”. Có bản án lại “sáng tác” thêm mục “Vụ T và Tr; tội “Đánh bạc” sau số bản án và ngày tháng - là những nội dung mà mẫu bản án của TANDTC không hướng dẫn phải viết vào bản án. - Phần ghi thông tin về những người tiến hành tố tụng, thời gian địa điểm xét xử Cùng một nội dung đã được mẫu bản án hướng dẫn thống nhất nhưng trong thực tế nhiều bản án còn viết với nhiều hình thức khác nhau và chưa đúng mẫu bản án như Có bản án viết “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”, bản án khác lại viết “Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”; hoặc “Các hội thẩm nhân dân 1. Ông Nguyễn Văn A; 2. Bà Nguyễn Thị B” thay vì phải là “Các hội thẩm nhân dân Ông Nguyễn Văn A; Bà Nguyễn Thị B”. Về địa điểm xét xử Có bản án viết “... tại trụ sở Tòa án nhân huyện C” hoặc “... tại phòng xử án Trung đoàn X, Quân khu Y” có bản án lại viết “... tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện C”. Theo chúng tôi, nếu vụ án được xét xử tại trụ sở Tòa án thì phải viết “tại phòng xử án” và nếu xét xử tại địa điểm khác ngoài trụ sở thì phải viết “tại hội trường”... mới chính xác. Có bản án chỉ viết “Ngày.. .tháng.. .năm, tại trụ sở Tòa án... xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số ... ngày.. .tháng.. .năm... với các bị cáo” là chưa phản ánh đầy đủ việc xét xử là công khai hay xử kín và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số... ngày... tháng... năm nào như mẫu bản án đã hướng dẫn. Mục “Thư ký phiên tòa” Theo hướng dẫn thì chỉ cần ghi họ tên thư ký của Tòa án nào nhưng hiện nay cũng còn nhiều cách viết khác nhau như “Thư ký phiên tòa Ông Đinh Đức T”; “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, Thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN, tỉnh QN”; “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, Thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN” thay vì chỉ cần viết “Thư ký phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN, tỉnh QN” là đủ. Về chức vụ của Kiểm sát viên, có bản án ghi “Kiểm sát viên” có bản án lại ghi “Kiểm sát viên trung cấp”, “Kiểm sát viên sơ cấp”.... Có vụ án, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vụ án phải hoãn nhiều lần thì HĐXX cũng ghi tất cả các quyết định hoãn phiên tòa vào phần này “Ngày... theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HS, ngày 29 tháng 7 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2020/QĐST-HSST, ngày 14 tháng 8 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/QĐST-HSST, ngày 24 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo...”; có bản án lại không ghi các quyết định này. - Phần lý lịch của bị cáo Hồ sơ vụ án phản ánh bị cáo không có bí danh hay tên gọi nào khác nhưng có bản án vẫn ghi “Tên gọi khác bí danh Không” là thừa. Có bản án không phản ánh nội dung “dân tộc, giới tính, tôn giáo, quốc tịch” của bị cáo. Bị cáo sinh ngày 02/7/2002, phạm tội ngày 30/6/2019 tức là khi phạm tội thì bị cáo mới 16 tuổi 11 tháng 28 ngày nhưng bản án chỉ ghi ở phần lý lịch bị cáo là “Sinh ngày 02/7/2002” mà thiếu mất đoạn “đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 11 tháng 28 ngày”. Mặt khác, mẫu bản án số 27-HS ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng TANDTC hướng dẫn “nếu bị cáo trên 18 tuổi thì ghi ngày, tháng, năm sinh hoặc tuổi” theo chúng tôi là chưa thống nhất bởi tuổi của bị cáo chỉ được tính đến thời điểm Tòa án xét xử còn nếu ghi ngày tháng năm sinh của bị cáo thì đó là dữ liệu gắn với một con người suốt cả cuộc đời; đồng thời nếu ghi đầy đủ ngày tháng năm sinh của bị cáo sẽ đảm bảo thống nhất tất cả các bản án trong toàn ngành. + Về “nơi cư trú” của bị cáo Nhiều bản án vẫn dùng từ “Trú tại” theo mẫu bản án cũ phải ghi là “nơi cư trú” hoặc “nơi thường trú” cho phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Cư trú. Trường hợp bị cáo là quân nhân nhưng bản án chỉ ghi nơi cư trú của bị cáo là tên đơn vị của bị cáo Ví dụ “Nơi cư trú Đại đội 20, Bộ Tham mưu Quân khu X” mà không ghi đầy đủ địa danh địa lý nơi đơn vị của bị cáo đóng quân là chưa đầy đủ. Theo quy định tại Điều 44 Bộ luật Dân sự và Điều 16 Luật Cư trú thì Nơi cư trú của quân nhân đang thực hiện nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị của quân nhân đó đóng quân; nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng là nơi đơn vị người đó đóng quân, trừ trường hợp họ có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Bộ luật Dân sự. + Về “trình độ văn hóa học vấn” Một số bản án còn nhầm lẫn giữa trình độ hiểu biết và trình độ chuyên môn của bị cáo nên phản ánh nội dung này trong bản án chưa đúng với nhiều cách viết khác nhau như “trình độ văn hóa Đại học”, “trình độ văn hóa Cử nhân xây dựng”; “trình độ văn hóa 10/12”; “trình độ văn hóa lớp 10”; “trình độ học vấn Lớp 10/12”; “trình độ văn hóa học vấn 11/12”... Học vấn là khái niệm chỉ mức độ của việc học mà một người đã đạt tới, bao gồm nhiều cấp bậc như tiểu học, trung học, đại học… Ở mỗi cấp bậc như thế, ta có thể gọi là một trình độ. Do đó, có thể hiểu rằng trình độ học vấn chính là trình độ hiểu biết do học hỏi mà có. Song, hiện nay, trình độ văn hóa đang được đánh đồng là trình độ giáo dục phổ thông mà theo đó, trình độ văn hóa được dùng để chỉ cấp độ học tập theo các bậc học phổ thông được thể hiện trong mẫu Sơ yếu lý lịch. Tuy nhiên, việc hiểu trình độ văn hóa như trên là chưa đúng, bởi theo nghĩa rộng, trình độ văn hóa còn bao gồm cả trình độ phát triển vật chất và tinh thần của một cá nhân trong đó chứa đựng cả cách sống, lối sống. Còn trình độ giáo dục phổ thông là trình độ của mỗi người tiếp thu kiến thức trong quá trình học tập ở các bậc học phổ thông tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Người có trình độ học vấn cao chưa hẳn đã có trình độ văn hóa cao, thậm chí vẫn bị coi là thiếu văn hóa. Có người trình độ học vấn thấp, nhưng ứng xử xã hội chuẩn mực vẫn là người có văn hóa. Do đó, mục “trình độ văn hóa học vấn” trong mẫu bản án hiện nay theo chúng tôi nên thay thế bằng cụm từ “trình độ học vấn” cho phù hợp. + Về “Tiền án, tiền sự; nhân thân” Ghi nội dung này trong bản án chưa đúng, có bản án chỉ ghi tiền án, tiền sự mà không ghi nhân thân của bị cáo; có bản án ghi tiền án của bị cáo không đúng từ ngữ pháp lý như “Tiền án Bản án số 30/STHS ngày 19/5/2004 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh TQ xử phạt 06 tháng tù treo, thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản; Tiền sự, nhân thân Không”. Có bản án ghi “Tiền án, tiền sự, nhân thân Không”. Đối với một số biện pháp xử lý hành chính, nhiều bản án chỉ ghi ở mục “Nhân thân” “Bị cáo bị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường hoặc bị đưa vào trường giáo dưỡng, đi cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số... ngày... tháng... năm... của ....” mà không ghi cụ thể thời gian bị áp dụng các biện pháp này từ khi nào đến khi nào do đó không có cơ sở để nhận biết là tính đến ngày phạm tội thì bị cáo đã được coi là chưa bị xử lý hành chính hay không. Có bản án còn ghi cả những lần bị cáo bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính nhưng theo Luật Xử lý vi phạm hành chính thì hành vi đó đã được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính vào mục “tiền sự”. - Về những thành phần tham gia tố tụng tại phiên tòa Có bản án xác định thừa hoặc sai tư cách tố tụng như Bản án xác định một người tham gia phiên tòa với tư cách tố tụng là “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” nhưng họ không yêu cầu Tòa án giải quyết nội dung gì, quá trình xét xử Tòa án cũng không xem xét, giải quyết gì đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Trường hợp này hay xảy ra với người mua tài sản ngay tình và tài sản đó do bị cáo trộm cắp được và bán cho họ hoặc trường hợp trước khi mở phiên tòa, đại diện gia đình bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong cho bị hại. Nhiều bản án, khi ghi lý lịch của bị hại là tổ chức, cơ quan, đơn vị nhưng không xác định rõ địa chỉ của tổ chức, cơ quan, đơn vị đó. Có trường hợp người làm chứng đã chết sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng trong bản án lại xác định “Người làm chứng Nguyễn Văn A; vắng mặt có lý do”... Phần “Nội dung vụ án” Phần này phải thể hiện đầy đủ các nội dung theo quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Ở phần này, câu văn được HĐXX sử dụng “là loại câu chủ động, thể hiện rõ hành động và ý chí của các đối tượng được đề cập trong bản án” [2]. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy ở phần này còn một số tồn tại sau - Một số bản án chép lại gần như nguyên văn nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát về diễn biến hành vi phạm tội trong đó thống kê lại đặc điểm toàn bộ vật chứng của vụ án đã thu giữ và xử lý nên làm bản án dài và trùng lặp. - Ghi quan điểm của Kiểm sát viên KSV, của người tham gia tố tụng tại phiên tòa trong giai đoạn tranh luận chưa đầy đủ nên chưa phản ánh rõ nét hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, thể hiện ở việc + Có bản án phản ánh đầy đủ đề nghị của KSV về các điểm, khoản, điều của BLHS, BLTTHS để giải quyết phần hình sự nhưng phần các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng thì KSV lại không nêu các điều luật viện dẫn để giải quyết. + Có bản án không nêu ý kiến của người làm chứng hoặc nêu không đầy đủ quan điểm của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của bị hại mặc dù các chứng cứ này trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa đều có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án. Cá biệt có bản án, mặc dù người làm chứng, bị hại, đương sự có mặt và tranh tụng tại phiên tòa nhưng trong bản án lại ghi “Trong quá trình điều tra, người làm chứng khai nhận... ”. Có bản án, mặc dù những lời khai của người làm chứng rất quan trọng và những lời khai này đều được các bên đưa ra khi tranh tụng tại tòa, nhưng vì người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX cũng không ghi vào trong bản án. + Có bản án chỉ nêu quan điểm đề nghị của KSV và lời nói sau cùng của bị cáo mà không phản ánh quan điểm bào chữa của bị cáo mặc dù kiểm tra biên bản phiên tòa cho thấy bị cáo có bào chữa và vì vậy nên bản án cũng không ghi được những ý kiến đối đáp của KSV với bị cáo, người bào chữa cho bị cáo. Có bản án, mặc dù HĐXX biết KSV nêu nội dung luận tội đúng nhưng đề nghị viện dẫn điều luật sai song tại tòa, HĐXX không hỏi lại để KSV đính chính mà vẫn ghi vào trong bản án các điều luật nhầm lẫn đó nhưng ở phần “Nhận định của Tòa án” thì HĐXX không lập luận gì về nội dung này. + Có bản án khi đại diện VKS tại phiên tòa thay đổi tội danh truy tố bị cáo nhưng bản án cũng không nêu lý do gì và ý kiến của bị cáo ra sao trước sự thay đổi đó. Ví dụ VKS trước đó truy tố bị cáo tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 93 BLHS; bản án viết “Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, vị đại diện VKSND tỉnh HT giữ quyền công tố tại phiên tòa đã thay đổi tội danh của cáo trạng đã truy tố, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân, tâm lý bị cáo trong quá trình phạm tội, từ đó đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H khoảng từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Vô ý làm chết người” theo khoản 1 Điều 98 BLHS. Miễn xét về phần dân sự....”. - Việc lựa chọn chứng cứ chứng minh để nêu trong bản án còn thiếu khoa học Có bản án viện dẫn chứng cứ quá dài, có những chứng cứ mà nội dung không liên quan gì đến việc giải quyết vụ án. Có bản án lại ghi cả những hành vi mà Viện kiểm sát không truy tố vào phần này. Cá biệt có bản án còn ghi nhầm quan điểm giải quyết của HĐXX mà lẽ ra phải được đưa vào phần “Nhận định của Tòa án” vào phần “Nội dung vụ án”. - Sử dụng từ ngữ pháp lý chưa phù hợp. Ví dụ “Quan điểm của Vị đại diện VKSND..... Sau khi phân tích....., Vị cho rằng.......; Vị Kiểm sát viên quyết định giữ nguyên nội dung bản cáo trạng....; Vị còn đề nghị HĐXX... ” . Sử dụng từ ngữ chưa thống nhất như “ông kiểm sát viên”;“vị đại diện VKS”;“ông công tố viên”;“đại diện VKS” hoặc “đồng bọn” trong vụ án đồng phạm hay “tịch thu, sung quỹ nhà nước” phải là “tịch thu sung vào ngân sách nhà nước”... Phần “Nhận định của Tòa án” Phần này phải phản ánh đầy đủ các nội dung theo quy định tại điểm d, điểm đ, điểm e khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Tuy nhiên qua nghiên cứu cho thấy - Việc phân định các đoạn văn trong dấu [ ] nhiều bản án chưa hợp lý thể hiện ở chỗ Thông thường, HĐXX nhận định đánh giá về hành vi, quyết định tố tụng của người và cơ quan tiến hành tố tụng trước khi giải quyết các vấn đề của vụ án; nhưng có bản án thì HĐXX lại đặt mục này ở cuối cùng của phần “Nhận định của Tòa án” là chưa phù hợp bởi việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của người và cơ quan tiến hành tố tụng là tiền đề trước khi xem xét, giải quyết các nội dung khác của vụ án. Mặt khác, có bản án chia quá nhỏ các nội dung trong dấu [ ] mà không phân định theo mỗi tình tiết hoặc các nhóm tình tiết của vụ án khiến bản án bị rối vì quá nhiều mục. Có bản án, HĐXX phân tích, đánh giá và giải quyết hết các nội dung của vụ án xong và ở mục cuối cùng, trước khi quyết định mới ghi “ [9] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng là phù hợp nên HĐXX chấp nhận”. Nếu viết bản án như vậy thì không sai; tuy nhiên chưa thể hiện rõ tính tranh tụng tại phiên tòa. Lẽ ra, các ý kiến của KSV, của người tham gia tố tụng đề nghị tại phiên tòa phải được HĐXX khẳng định chấp nhận hoặc không chấp nhận vì lý do gì tại mỗi mục dấu [ ] mà HĐXX giải quyết trong phần này của bản án, như vậy mới đảm bảo tính lô gic, tức là thể hiện tính tranh tụng rõ nét trong việc giải quyết các nội dung vụ án của HĐXX. Ví dụ “... từ sự phân tích nêu trên, HĐXX có cơ sở khách quan và căn cứ pháp lý để kết luận Bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015. Do vậy, ý kiến của ông KSV tại phiên tòa có cơ sở chấp nhận; ý kiến của người bào chữa cho bị cáo về việc bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là không có cơ sở chấp nhận”. Thực tế, nhiều bản án chưa phản ánh đầy đủ nội dung tranh tụng tại phiên tòa và thường thuộc hai trường hợp là 1 quá trình tranh tụng, các bên có tranh luận nội dung đó nhưng không được HĐXX phản ánh vào bản án và 2 quá trình tranh tụng, HĐXX quên không đưa vấn đề đó ra cho các bên tranh luận nên bỏ sót không đưa vào bản án. - Một số bản án chưa nêu được mục đích, động cơ phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội hoặc điều kiện sinh sống và giáo dục của bị cáo, nhất là trong trường hợp bị cáo là người dưới 18 tuổi. Một số bản án xét xử các vụ án đồng phạm nhưng HĐXX không phân tích làm rõ hình thức đồng phạm, không xác định rõ vai trò của từng bị cáo trong vụ án nhưng trong quyết định của bản án lại áp dụng các quy định về đồng phạm Điều 17 và Điều 58 BLHS với các bị cáo. - Khác với phần “Nội dung vụ án” ở trên; ở phần này, câu văn được HĐXX sử dụng là “loại câu bị động tức là câu có chủ ngữ chỉ người, vật được hoạt động của người, vật khác hướng vào, chủ yếu nhằm chỉ đối tượng của hoạt động” [3]. Tuy nhiên, việc sử dụng từ ngữ trong một số bản án còn chưa phù hợp, thiếu tính pháp lý thể hiện ở việc Nhiều bản án hay sử dụng từ “Tại phiên tòa hôm nay” trong khi vụ án từ khi khai mạc đến khi tuyên án phải kéo dài ngày; vậy “hôm nay” xác định trong bản án là hôm nào? Sử dụng từ “tang vật” trong khi BLTTHS xác định đó là “vật chứng”. Bản án đã được HĐXX nghị án xong và tuyên án nhưng trong phần này bản án vẫn nêu “Khi quyết định hình phạt, HĐXX sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung” hoặc “về nhân thân các bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và người lao động”. Có bản án nêu những nhận xét, đánh giá mang tính cảm quan như “từ những đánh giá trên, nghĩ cần thiết phải cách ly bị cáo Nguyễn Văn T ra khỏi đời sống xã hội....”. Hoặc “về nhân thân ba bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ 03 bị cáo chưa có tiền án, tiền sự... ”. - Bản án viết chưa đúng mẫu; bản án viết cùng một nội dung nhưng chưa thống nhất với nhau giữa ngay trong một Tòa án hoặc giữa các Tòa án với nhau. Ví dụ Mẫu bản án của TANDTC hướng dẫn các nội dung cần phải có trong bản án nhưng có bản án lại chép nguyên văn mẫu này vào bản án và đánh giá của HĐXX lại mập mờ, không rõ như “ [1] Phân tích tính hợp pháp của các hành vi tố tụng Về hành vi, quyết định tố tụng ... của ... trong quá trình ... đã cơ bản thực hiện đúng thẩm quyền ....; [2] Phân tích chứng cứ buộc tội và gỡ tội đối với các bị cáo...”. Nhiều bản án sau khi phân tích hành vi khách quan của bị cáo thì HĐXX đã trích dẫn cả điều luật của BLHS về tội danh mà bị cáo đã phạm vào bản án nhưng nhiều bản án lại không trích dẫn điều luật BLHS bị cáo bị xét xử vào bản án. Có bản án nêu cả quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng thành một mục trong phần “Nhận định của Tòa án” nhưng có bản án thì không có mục này. - Về biện pháp tư pháp Nhiều bản án áp dụng pháp luật thiếu chính xác như thay vì áp dụng khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 589 BLDS thì lại ghi áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 589 BLDS. Có trường hợp được HĐXX xác định tư cách tham gia tố tụng trong bản án là “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” nhưng phần này HĐXX lại không nêu họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gì đến vụ án; thực tế thì họ không có yêu cầu, đề nghị gì nhưng phần “Quyết định” của bản án lại tuyên họ có quyền kháng cáo bản án là thiếu lô gic và chưa chính xác. Cá biệt, một số vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” chưa xác định đầy đủ tư cách của chủ sở hữu phương tiện là bị đơn dân sự nên không buộc bị đơn bồi thường thiệt hại. - Phần ghi quan điểm của HĐXX về xử lý vật chứng Nhiều bản án chưa nêu được căn cứ pháp luật để HĐXX xử lý các vật chứng của vụ án mà chỉ ghi chung chung là “... đối với các vật chứng....là những vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy” nhưng trong phần quyết định của bản án lại tuyên “...áp dụng Điều 47 BLHS, căn cứ Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy...” là thiếu lô gic và chưa đúng các điểm, khoản của điều luật được áp dụng. - Mục [Về án phí], có bản án viện dẫn khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; có bản án lại viện dẫn khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14; có bản án viện dẫn khoản khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 cùng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 nhưng có bản án lại chỉ nêu “Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật”. - Về việc giải quyết các biện pháp ngăn chặn Trước khi xét xử bị cáo phạm tội “Đánh bạc”, bị cáo bị Tòa án ra lệnh “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; khi xét xử, bị cáo bị phạt tiền; HĐXX nhận định trong bản án và quyết định trong phần quyết định của bản án là “hủy quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú trước đó” với bị cáo nhưng có bản án cũng vẫn xét xử tội đánh bạc như vậy thì HĐXX lại không quyết định hủy biện pháp ngăn chặn này. Tương tự như vậy, bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” thì có HĐXX lại nhận định trong bản án là “tiếp tục áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú với bị cáo cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật” chứ không đưa vào phần quyết định nội dung này, có HĐXX lại không đề cập gì đến nội dung này trong bản án. Phần quyết định Phần này phải phản ánh đầy đủ nội dung theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Mẫu viết bản án tại Nghị quyết số 05/2017/NQ- HĐTP 19/9/2017 không hướng dẫn HĐXX phải ghi áp dụng “điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS” vào bản án. Tuy nhiên, nghiên cứu các “Quyết định” của những bản án đã được công bố cho thấy có rất nhiều cách tuyên với nội dung và hình thức khác nhau và không thống nhất về hình thức và nội dung như - Nhiều bản án sử dụng từ “Căn cứ” theo đúng mẫu bản án của TANDTC, nhiều bản án lại sử dụng từ “Áp dụng”. - Cách tuyên án cũng khác nhau Nhiều bản án tuyên căn cứ các điều luật về tội danh; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, án phí sau đó mới tuyên bố bị cáo phạm tội. Nhiều bản án lại tuyên bố bị cáo phạm tội gì sau đó mới tuyên áp dụng điều luật ở từng mục hình sự, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, án phí .... Quyết định về án phí Tương tự như phần “Nhận định của Tòa án” đã nêu trên, có bản án viện dẫn khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14; có bản án chỉ viện dẫn khoản 2 Điều 136 BLTTHS; có bản án lại viện dẫn cả khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14...như Có bản án tuyên “Vì các lẽ trên, căn cứ điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS; Quyết định 1. Về hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội Giết người; áp dụng khoản 1 Điều 123 điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo.....”. Có bản án lại tuyên “Vì các lẽ trên, Quyết định 1. Tuyên bố bị cáo Lê Thái Ng phạm tội Đánh bạc; áp dụng khoản 1 Điều 321... BLHS xử phạt bị cáo Lê Thái Ng đồng”. Bản án khác tuyên “ Vì các lẽ trên, Quyết định [1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 BLHS; tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội đánh bạc; áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51......BLHS xử phạ t...”. Có bản án lại tuyên tất cả các điều luật được áp dụng ngay sau từ “Quyết định” như “Vì các lẽ trên, Quyết định Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; khoản 2 Điều 56 BLHS. Căn cứ Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14... Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huy D phạm tội ...; phạt bổ sung đ. Về án phí Bị cáo Nguyễn Huy D phải nộp đồng án phí hình sự sơ thẩm ...”. Có bản án lại tuyên trong “Quyết định” cả các điều luật của BLTTHS về thẩm quyền của Tòa án như “Vì các lẽ trên, Quyết định Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 268, Điều 269 và Điều 299 BLTTHS; tuyên bố bị cáo Luyện Văn Đ phạm tội giết người; căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm ... BLHS xử phạt bị cáo ....”. Có bản án do bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong phần bồi thường trước khi xét xử thì HĐXX lại ghi “Vì các lẽ trên, Quyết định 1. Về tội danh và hình phạt... 2. Về trách nhiệm dân sự Miễn xét”. - Về quyết định của Hội đồng xét xử với việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án để đảm bảo thi hành án cũng không thống nhất Có bản án ghi trong phần Quyết định “Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo cho việc thi hành án có Quyết định tạm giam riêng của Hội đồng xét xử”. Có bản án lại tuyên “Áp dụng khoản 1 Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án”; nhiều bản án không tuyên các nội dung này trong quyết định của bản án mà HĐXX thảo luận, quyết định nội dung này và được ghi trong biên bản nghị án sau đó HĐXX công bố quyết định này sau khi tuyên án. - Đối với những bản án tuyên bị cáo còn phải có nghĩa vụ thi hành án dân sự quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí ... thì theo hướng dẫn của Công văn số 99/TANDTC-KHXX ngày 01/7/2009 về thi hành Luật Thi hành án hình sự, tại phần cuối cùng Quyết định của bản án phải ghi “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”. Tuy nhiên nhiều bản án lại không ghi nội dung này. Ngoài ra, một số bản án do chưa cập nhật nội dung Luật Thi hành án hình sự 2019 đã có hiệu lực thi hành nên trong bản án vẫn tuyên “trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự” Điều 69 là của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã hết hiệu lực thi hành là không chính xác. - Nhiều quyết định của bản án trong mục xử lý vật chứng lại ghi lại đặc điểm của toàn bộ các vật chứng trong vụ án là không cần thiết hoặc tuyên tịch thu vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, tài sản do phạm tội mà có nhưng lại không xác định những tài sản, vật chứng đó là của ai. Có trường hợp không áp dụng Điều 128 BLTTHS để kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án mà chỉ tuyên “tạm giữ xe mô tô ... để đảm bảo thi hành án”. Với những hiểu biết còn hạn chế của mình; chúng tôi xin nêu lên một số nội dung còn tồn tại hoặc chưa thống nhất trong hình thức và nội dung viết bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án các cấp để cấp có thẩm quyền hướng dẫn và thống nhất trong toàn ngành nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói chung cũng như chất lượng viết bản án nói riêng./. Chủ toạ phiên toà vụ gian lận điểm ở Hà Giang công bố bản án - Ảnh Nguyễn Hưng/ CAND [1] Điều 132 BLTTHS [2] Một số vấn đề về bản án và văn phong bản án- Lê Văn Minh, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao [3] Một số vấn đề về bản án và văn phong bản án- Lê Văn Minh, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60; điểm c khoản 2 Điều 278 BLHS năm 1999 tương ứng với điểm b, s Điều 51; Điều 54; Điều 65, điểm c khoản 2 Điều 353 BLHS năm 2015;2. Sự cần thiết công bố án lệHiện nay, việc xác định số tiền chiếm đoạt trong trường hợp có khắc phục một phần hậu quả để làm căn cứ định tội và định khung hình phạt còn có những cách hiểu khác nhau, thiếu tính thống nhất. Rất cần phải có một án lệ giải thích về vấn đề này. Án lệ hình sự số 19/2018 là án lệ có nội dung theo tình huống trên. Cụ thể, trong vụ án bị cáo lợi dụng sơ hở trong quản lý ngân hàng bằng thủ đoạn gian dối, nhiều lần trực tiếp làm thủ tục rút và chi tiền tiết kiệm từ quỹ của chi nhánh ngân hàng do bị cáo quản lí nhưng thực tế không chi có bất kì ai. Quá trình điều tra bị cáo đã khắc phục được một phần số tiền đã chiếm đoạt. Viện kiểm sát nhân dân cho rằng số tiền bị cáo khắc phục hậu quả nên không truy tố về hành vi này. Việc không truy tố số tiền đã khắc phục không những bỏ lọt tội phạm mà còn dẫn đến xác định sai khung hình phạt áp dụng. Do đó, việc công bố án lệ số 19/2018 là rất cần thiết cho quá trình điều tra, truy tố và xét xử áp dụng cho thống Nội dung vụ án và tình huống án lệ* Nội dung vụ ánVõ Thị Ánh N không được lãnh đạo Ngân hàng nông nghiệp C giao nhiệm vụ chi tiền tiết kiệm nhưng lợi dụng sự sơ hở trong quá trình quản lý của Ngân hàng, Võ Thị Ánh N đã nhiều lần trực tiếp làm các thủ tục và chi tiền tiết kiệm từ quỹ của chi nhánh ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản lý cho sổ tiết kiệm NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V với tổng số tiền là đồng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định không có khách hàng nào tên Ngô Thanh V và bản thân Võ Thị Ánh N cũng không chứng minh được ai là người đến nhận số tiền khi làm thủ tục chi tiền cho khách hàng Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã chuyển đồng là tiền trong quỹ của ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản lý vào tài khoản ATM mang tên Võ Thị T do Võ Thị Ánh N là người trực tiếp mở thẻ, quản lý và sử dụng; sau đó nhiều lần rút số tiền này để chiếm đoạt của Ngân hàng nông nghiệp C. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Võ Thị Ánh N về tội “Tham ô tài sản” đối với số tiền đồng là có căn cứ và đúng pháp luật. Tuy nhiên, số tiền mà Võ Thị Ánh N chiếm đoạt của Ngân hàng là đồng nên hành vi phạm tội của Võ Thị Ánh N thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 278 BLHS “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng” có khung hình phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ áp dụng khoản 2 Điều 278 BLHS xử phạt bị cáo Võ Thị Ánh N 03 năm tù là quá nhẹ, không đúng với quy định của pháp luật. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, vẫn giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng, không đánh giá đúng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.* Tình huống án lệ“Đối với số tiền còn lại đồng – = đồng mà Võ Thị Ánh N đã chi trả cho sổ tiết kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã khắc phục xong hậu quả, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố C đã thu hồi được toàn bộ số tiền bị mất. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định cho rằng bị cáo đã khắc phục hậu quả nên không truy tố về hành vi này là bỏ lọt tội phạm.”4. Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệKhi vụ án hình sự bị truy tố về tội tham ô tài sản và xác định số tiền bị cáo chiếm đoạt. Trong quá trình điều tra, bị cáo có bồi thường, khắc phục hậu quả một phần số tiền đã chiếm đoạt, thì phải truy tố và xét xử bị cáo về tội tham ô với tổng số tiền được xác định chiếm đoạt ban đầu. Khi vụ án hình sự có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự như vậy thì Tòa án phải áp dụng ALHS số 19/2018 để xét xử bị số 19 không chỉ lập luận, giải thích, chỉ ra việc bỏ lọt hành vi phạm tội trong tội tham ô tài sản mà còn chỉ ra việc đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội không đúng, dẫn đến áp dụng sai khung hình phạt. Lẽ ra bị cáo phải bị xét xử theo khoản 3 Điều 278 BLHS 1999,có khung hình phạt từ mười lăm năm đến hai mươi năm. Do loại trừ số tiền chiếm đoạt đã khắc phúc nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 278 BLHS 1999 có khung hình phạt từ bảy đến mười lăm năm tù để xét xử bị cáo là không đúng pháp dù số lượng các án lệ được ban hành còn khiêm tốn nhưng đã thể hiện được quyết tâm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; được nhìn nhận là dấu ấn quan trọng về cải cách tư pháp, góp phần minh bạch hóa các bản án, quyết định của Tòa án, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau. Các án lệ mới được công bố đã phần nào đáp ứng được mong đợi của người dân, khắc phục được các khiếm khuyết và bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động xét xử, tạo tính ổn định, minh bạch trong các phán quyết của Tòa án. Theo kết quả khảo sát, từ ngày 01/ 10/2016 đến 2/2018, mới chỉ có 14 tỉnh thành phố trong cả nước áp dụng án lệ trong xét xử, với 18 bản án có áp dụng án lệ và chưa có án lệ hình sự nào được áp dụng. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ này 01/10/2016 đến ngày 10/06/2018, có khoảng 143 bản án, quyết định của các Tòa án nhân dân đã viện dẫn, áp dụng án lệ trong đó chủ yếu là viện dẫn án lệ dân sự, hôn nhân, kinh doanh, thương mại. Riêng án lệ hình sự chưa được viện dẫn, áp dụng vào trong hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án nhân là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info

bình luận bản án hình sự