tiểu sử thiền sư vạn hạnh

Bạn đang xem: Tiểu sử lý thái t đề Khủng nhỏ tuổi trong triều đình xuất xắc bình thế gian bên vua mọi tsay mê vấn chủ ý, thiền đức sư Vạn Hạnh bèn tiến cử Lý Công Uẩn. Vào triều làm quan, Lý Công Uẩn càng tỏ rõ là người có tài năng thao lược, được vua Lê Tiểu sử Hòa thượng Thích Như Minh 1. THÂN THẾ Hòa thượng Thích Như Minh thế danh Huỳnh Phác sinh ngày 27 tháng 06 âm lịch năm Giáp ngọ (1954) tại miền thùy dương cát trắng Nha trang tỉnh Khánh hòa trong một gia đình thuần tín tin Phật. Cô vốn xuất thân từ một gia đình bình thường, từ nhỏ đã theo chân bố mẹ đến Thâm Quyến sinh sống và học hành. Trong quá trình trưởng thành đó, cô dần phát hiện ra bản thân rất có tài năng ca hát và nhảy múa, cộng thêm tính cách hòa đồng nên cô rất được thầy cô giáo và bạn bè yêu mến. - Đến năm 2015, cô bắt đầu con đường streamer của mình. Thiền sư Thích Nhất Hạnh sống chủ yếu ở miền tây nam nước Pháp, nơi ông thành lập một trung tâm tu tập được gọi là Làng Mai hay Đạo tràng Mai Thôn. Ở đây, ông tiếp tục giảng dạy, viết sách và làm vườn. Lúc đầu, Làng Mai chỉ có khoảng ba mươi nhà sư, nữ tu, nhưng hàng ngàn người trên thế giới gọi đây là nhà. Năm 21 tuổi, ngài theo Thiền sư Định Huệ xuất gia và thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Khi Thiền Ông viên tịch, ngài tiếp quản nhiệm vụ trụ trì và chuyên thiền tập pháp "Tổng trì Tam ma địa", lấy đó làm sự nghiệp đời tu. Bấy giờ ngài nói ra điều gì dân chúng đều cho là sấm ký. Frühstückstreffen Für Frauen In Deutschland Ev. Qua thời đại nhà Lý từ bi, nhân bản và nhân chủ đức trị, qua thành Thăng Long, qua huyền thoại Rồng Tiên và huyền thoại Hồng Bàng, đâu đâu ta cũng thấy bóng dáng siêu thoát, kỳ vĩ của Thiền Sư Vạn Hạnh. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh đã hoàn thành sự nghiệp Việt Nam một cách quy mô nhất, toàn diện nhất, ở mức độ cao đẹp nhất, bao trùm đang xem Sư vạn hạnh là ai Sau đêm dài man rợ, rùng rợn của thời đại Bắc Thuộc, sau thời kỳ loạn lạc suy tàn của ba chế độ pháp trị và bạo trị ngắn ngủi Ngô, Đinh, Lê, tất cả đều phải được làm lại, tất cả đều phải được bắt đầu lại, đó là sứ mạng của thời đại. Trước họa nội chiến, trước nạn ngoại xâm, trước chế độ độc tài, tàn bạo, dân tộc cần được cứu nguy, đất nước cần được quang phục, con người cần được giải phóng. Đó là tiếng kêu, đó là nhật lịnh của lịch sử. Dưới sự cai trị bạo ác của chế độ Lê Long Đỉnh, dân tộc ta bị kéo lê lết, lầm lũi đi xuống vực thẳm, họa nội chiến chực xô đẩy dân tộc xuống đồng lầy, nạn ngoại xâm chực đạp đầu dân tộc xuống bùn đen. Thế rồi, trong cơn nguy biến ấy, trong giờ phút hấp hối ấy, bỗng nhiên, Thiền Sư Vạn Hạnh xuất hiện, thần tốc vung tay, siêu việt chuyển hóa, dũng mãnh hành hoạt đem “Trụ tích trấn Vương kỳ” Dùng gậy của nhà Phật để trấn giữ Kinh kỳ của nhà Vua.Bằng cái thiền trượng mầu nhiệm ấy, Thiền Sư Vạn Hạnh đã tung mình bay đến đứng trên vực thẳm, hùng tráng nhảy vọt qua hố thẳm, bay bổng qua cảnh đầm lầy và thiền sư đã mang cả dân tộc vượt thắng, vượt qua, vượt lên hố thẳm diệt vong và đầm lầy suy vi. Không những mang cả dân tộc cùng đi, Thiền Sư Vạn Hạnh còn cõng cả thời đại trên lưng để bay đi kỳ vĩ - từ vực sâu bạo trị, vô trị của các nhà Ngô, Đinh, Lê đến đỉnh cao Văn Trị và Đức Trị của thời đại Lý, Trần, thời đại hưng thịnh nhất, tuyệt vời nhất và vinh quang nhất của dân tộc. Thiền Sư là một con rồng lớn, bóng dáng hùng vĩ của thiền sư ngả dài che mát cả dòng lịch sử, nhưng hình tướng của thiền sư thì ẩn, khi hiện, sử sách chỉ để lại vài ba dấu vết đơn sơ, đơn sơ như một bức tranh thủy mạc, đơn sơ như tâm hồn Việt người lịch sử của Thiền Sư Vạn Hạnh quá vĩ đại, lại bàng bạc như hư không nên các sử gia không thể nào thấy trọn, thấy hết. Không những thế, nhiều sử gia đã không hề thấy. Các sử gia ghi rằng “Cuối triều Lê, khi Ngọa Triều chết, Vạn Hạnh cùng với triều thần, đứng đầu là Đào Cam Mộc, mưu lập Lý Công Uẩn lên ngôi”. “Khi Lý Công Uẩn còn bé, sáng suốt tinh khôn, phong tư tuấn tú khác thường, Vạn Hạnh thấy biết ông sẽ làm nên nghiệp lớn và nói rằng “Người nầy không phải là người thường, lớn lên tất làm vua giỏi một nước”. “Vạn Hạnh, thiền sư ở chùa Lục Tổ, thuở nhỏ ông đã khác thường, thông hiểu ba môn học, nhưng coi công danh phú quý lạt lẽo. Năm 21 tuổi xuất gia với Thầy Đinh Huệ, theo học thiền ở Chùa Lục Tổ, ngoài giờ phục vụ, học hỏi quên mệt mỏi. Sau khi tu hành đắc đạo, nói câu nào ắt thành lời sấm”.Đời sau, nói đến Thiền Sư, người ta thường nhớ tới bài thơ tán dương của Vua Lý Nhân Tông, người lãnh đạo quốc gia, đại diện cho Đời, đối với Thiền Sư Vạn Hạnh, người đại diện cho ĐạoThiền sư Vạn Hạnh hợp nhất ba cõi quá khứ, hiện tại, tương lai. Đúng như lời thơ tiên tri thời cổ xưa; Quê hương danh tiếng của thiền sư là làng Cổ Pháp, Thiền sư đã đem gậy nhà Phật để bảo vệ lãnh thổ Quốc Gia.Trước khi có cuộc cách mạng năm 1009, Thiền Sư Vạn Hạnh đã đóng một vai trò quan trọng trong triều đình như là cố vấn của nhà vua. Khi quân Tống sang xâm lăng nước ta năm 980, Vua Lê Đại Hành hỏi thiền sư nếu đánh thì thắng hay bại, thiền sư trả lời là nội trong ba, bảy ngày thì giặc phải thua chạy. Rồi năm 982, khi quân Chiêm Thành bắt hai sứ giả của ta, thiền sư đã khuyên vua cấp tốc xuất quân Nam chinh thì sẽ đại thắng. Quả nhiên, đối với hai vấn đề trọng đại sinh tử nầy là đương đầu với đế quốc phương Bắc và đánh dẹp phương Nam vào thời ấy đều đúng như lời thiền sư tiên thêm Sự Khác Biệt Giữa Lợi Nhuận Kinh Tế Là Gì ? Yếu Tố Nào Ảnh Hưởng Lợi Nhuận Kinh TếHai việc chính sự kể trên mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã tham dự đều xảy ra dưới thời Vua Lê Đại Hành, là một vị minh quân. Đến thời Lê Long Đỉnh, sử sách không nói gì đến vai trò của thiền sư. Có lẽ thiền sư đã đứng ra cố vấn cho minh quân Lê Đại Hành, nhưng đến thời hôn quân bạo chúa Lê Long Đỉnh, lên ngôi làm những việc bạo ác và dã man, xúc phạm nặng nề đến Phật giáo như dùng dao róc mía trên đầu các sư, nên thiền sư đã rút về ẩn trong bóng tối để âm thầm chuẩn bị một cuộc đại hành hoạt đưa dân tộc đến kỷ nguyên ánh sáng. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh là linh hồn của cuộc cách mạng bất bạo động vào năm 1009, thiền sư đã âm thầm, kiên trì chuẩn bị và vận động cuộc cách mạng nầy từ thuở Lý Công Uẩn còn là một chú bé tóc để chỏm đi làm chú tiểu ở Chùa Cổ Pháp, gặp chú tiểu nầy, thiền sư bằng tuệ giác đã biết sau nầy chú bé sẽ trở thành một minh quân, một bậc vĩ nhân của dân tộc. Sử chép rằng Lý Công Uẩn là con nuôi của Thiền Sư Lý Khánh Vân, trụ trì Chùa Cổ Pháp và là đệ tử của Thiền Sư Vạn Hạnh từ thuở còn thơ. Bằng sử liệu đơn sơ nầy, ta có thể quả quyết rằng Lý Công Uẩn từ thuở bé đã lọt vào mắt xanh của Thiền Sư Vạn Hạnh và đã được thiền sư giáo dục, hướng dẫn để trở thành một con người lịch sử, làm tròn sứ mệnh mà dân tộc và đạo pháp đã giao làm như thế, Thiền Sư Vạn Hạnh không phải làm vì Phật giáo, vì thời đó, qua ba chế độ độc lập Ngô, Đinh, Lê thì Phật giáo đã là quốc giáo ở Việt Nam. Rõ ràng thiền sư đã làm là vì dân tộc, vì muốn chuyển hóa xã hội bạo trị thành một xã hội đức trị, biến một quốc gia Việt Nam mong manh, suy vi thành một quốc gia Việt Nam hùng cường, hưng thịnh. Thiền sư đã ra tay hành động, vừa là để tránh cho dân tộc khỏi rơi vào vực thẳm, khỏi trầm luân trong đầm lầy và vừa để xây dựng trên đống tro tàn, gạch vụn đổ nát của thời Bắc thuộc và thời chiến tranh, loạn lạc, độc tài, bạo trị, một lâu đài Việt Nam nguy nga, tráng lệ, một sự nghiệp Việt Nam trường tồn bất tử ngàn năm. Tuy đã âm thầm chuẩn bị và vận động cuộc cách mạng 1009 từ lâu và chuẩn bị trên mọi mặt, từ sự giáo dục bản thân Lý Công Uẩn, biến cậu bé khôi ngô tuấn tú, thông minh khác thường nầy thành một người tài đức vẹn toàn, đồng thời thấm nhuần chánh pháp để có thể trở thành một Quân Vương Bồ Tát, để trị quốc an dân theo chánh pháp, đến sự khai thị nhân tâm, chuẩn bị dư luận quần chúng, tuyên truyền vận động chính trị bằng sấm truyền về vai trò lịch sử tất yếu của Lý Công Uẩn, qua việc thăm dò, móc nối và tổ chức nhân sự để thực hiện cuộc đảo chánh và sau đó là để tiến hành cuộc cách thời kỳ tiền cách mạng, chính thiền sư đã làm tất cả thể theo một kế hoạch dài hạn, với một kỷ thuật siêu việt, nhưng đến khi cách mạng xảy ra thì thiền sư không làm gì cả. Người ta không thấy thiền sư cầm quyền lãnh đạo. Thiền Sư chỉ ngồi yên, mỉm cười bên chén trà hay lặng lẽ cuốc đất hay đã biến mất vào hư không. Sử ghi lại rằng ngày cuộc cách mạng xảy ra thành công tốt đẹp và Lý Công Uẩn được suy tôn lên làm Hoàng Đế thì Thiền Sư Vạn Hạnh đang ngồi uống trà ở Chùa Lục Tổ. Thiền sư đã biết trước việc nầy và nói cho mọi người trong chùa nghe. Họ vội vàng chạy về kinh đô để nghe tin, thì quả đúng như lời thiền sư sách và thế gian chỉ ghi rằng Lý Công Uẩn lên làm vua, Đào Cam Mộc dẹp yên các phe phái trong triều đình và quần chúng ủng hộ cuộc cách mạng. Còn Thiền Sư Vạn Hạnh, người như hạc vàng, đã bay vào vô tận, không để lại dấu vết, hình tướng, chỉ để lại hương thơm muôn thuở trong lòng người và lòng dân tộc. Không những đối với cuộc cách mạng năm 1009, mà đối với tất cả sự nghiệp vĩ đại khác mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã làm như dời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, kiến thiết kinh thành Thăng Long..., thiền sư đều làm với tinh thần vô kỷ, vô công, vô danh và vô hành. Giúp dân dựng nước hay hoằng pháp độ sanh, thiền sư đều làm một cách bình dị, tự nhiên như uống trà, cuốc đất, thở ra, thở vào, nằm, ngồi, đi, thêm Giftcode Truy Kích Mới Nhất 2021 Dành Riêng Cho Các Tay Thiện XạQua thời đại nhà Lý từ bi, nhân bản và nhân chủ đức trị, qua thành Thăng Long, qua huyền thoại Rồng Tiên và huyền thoại Hồng Bàng, đâu đâu ta cũng thấy bóng dáng siêu thoát, kỳ vĩ của Thiền Sư Vạn Hạnh. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh đã hoàn thành sự nghiệp Việt Nam một cách quy mô nhất, toàn diện nhất, ở mức độ cao đẹp nhất, bao trùm nhất. Sự nghiệp của Thiền Sư Vạn Hạnh không phải là sự nghiệp của Phật giáo Việt Nam mà thôi, mà còn chính là sự nghiệp Việt Nam. Thiền Sư Vạn Hạnh qua những công việc phi thường nầy, đã không làm cho riêng mình, đóng góp không ít cho Phật giáo mà đã làm tất cả cho dân tộc VIỆT kỳ diệu là sau khi hoàn thành sự nghiệp lớn lao vô song nầy và giữa thời đại thịnh của dân tộc VIỆT và Đạo Phật VIỆT, Thiền Sư Vạn Hạnh đã để lại cho đời bốn câu thơ siêu thoát và bay trong cõi vô cùng của lịch sử Lãnh đạo phong trào hòa bình Phật giáo và hoạt động xã hội Tháng 12 năm 1963, Thầy rời Hoa Kỳ để về lại Việt Nam. Trên đường về nước, Thầy ghé qua Paris và có thuyết pháp cho đồng bào tại đây. Tháng Giêng năm 1964, Thầy về đến Việt Nam và đứng ngay vào vai trò lãnh đạo của phong trào hòa bình Phật giáo và hoạt động xã hội[1]. Chỉ vài ngày sau khi về nước, Thầy đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo Phật giáo và sinh viên để lắng nghe về tình hình của đất nước. Thầy đề nghị hai phương án cụ thể cho các nhà hoạt động xã hội trẻ tuổi thứ nhất, mỗi tuần dành hẳn một ngày để cùng nhau đến chùa Trúc Lâm tu tập, tĩnh lặng thân tâm và thảo luận kế hoạch hành động; thứ hai hết lòng xây dựng những làng hoa tiêu còn gọi là làng tự nguyện hay làng tình thương nhằm tái thiết và phát triển nông thôn. Đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất GHPGVNTN[2], Thầy đã đưa ra 3 điểm kiến nghị rất cụ thể để cộng đồng Phật giáo có thể góp phần vào việc chấm dứt tình trạng chia rẽ và bạo động trên đất nước Giáo hội nên đứng lên kêu gọi anh em miền Nam và miền Bắc Việt Nam ngồi lại tìm giải pháp chung để chấm dứt chiến tranh cốt nhục tương tàn. Giáo hội nên cấp thiết thành lập một Viện Cao đẳng Phật học để xây dựng lớp trí thức mới có tu có học rành mạch những điều Phật dạy hầu hướng dẫn đất nước đi về hướng đại trí đại bi, khoan dung, và biết lắng nghe tiếng nói của toàn dân. Giáo hội nên xây dựng ngay một trung tâm đào tạo tác viên xã hội để về các vùng nông thôn giúp người nghèo – những người thiếu ăn, thiếu học, chưa biết cách tổ chức làng xã – nhằm thúc đẩy việc thay đổi xã hội một cách bất bạo động, dựa trên giáo lý của Bụt. Các vị tôn túc trong Giáo hội chỉ đồng ý điểm thứ hai là thành lập Viện Cao đẳng Phật học. Tuy nhiên, vì không có tài chánh và địa điểm để xây dựng học viện nên họ cho Thầy được toàn quyền xúc tiến. Chỉ trong vòng một tuần, Thầy đã gặp các vị lãnh đạo của GHPGVNTN và bắt tay vào xây dựng Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn[3]. Những năm tiếp theo là thời kỳ dày đặc các hoạt động giảng dạy, in ấn, thuyết giảng công cộng, xây dựng cộng đồng và các hoạt động xã hội. Qua đó, Thầy đã gây được rất nhiều cảm hứng cho thế hệ trẻ. Cuối cùng thì Thầy đã có cơ hội biến ước mơ thành hành động. Chùa Trúc Lâm trở thành một địa điểm nơi những người tu trẻ và cư sĩ cùng gặp gỡ và làm việc chung với nhau như một cộng đồng. Các sinh viên về đây vào cuối tuần[4]. Thầy hướng dẫn cho sư chú Nhất Trí – người đệ tử đầu tiên được Thầy thế phát xuất gia và là một tác viên xã hội tài năng – phụ trách chương trình xây dựng làng Cầu Kinh[5]. Cộng đồng của Thầy xây dựng hai làng thí điểm làng Cầu Kinh và sau đó là làng Thảo Điền[6]. Các tác viên xã hội trẻ, cả xuất sĩ và cư sĩ, giúp dân làng xây trường học và khởi sự dạy chữ cho trẻ con trong làng. Ngay sau đó, họ cũng bắt đầu huấn luyện dân làng các kỹ thuật nông nghiệp, xây dựng hệ thống tưới tiêu và hướng dẫn về vệ sinh trong cộng đồng. “Chúng tôi không có tiền bạc, nhưng chúng tôi đã có kế hoạch và rất nhiều thiện chí”, Thầy nói[7]. Tháng Ba năm 1964, với sự hỗ trợ hết lòng của các sinh viên và bạn hữu, Thầy đã thành lập Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn tại chùa Pháp Hội. Thầy dời thư viện gồm khoảng 20,000 quyển sách từ Phương Bối về Viện. Thầy bắt đầu một trong những khóa học đầu tiên về Pháp tướng duy thức học và Pháp tánh không tuệ học cùng với các kinh nguyên thỉ khác. Khi HT. Thích Minh Châu từ Ấn độ trở về vào tháng Tư, Thầy đã thỉnh Hòa thượng làm giám đốc của Viện. Niên khóa đầu tiên bắt đầu vào mùa thu năm 1964, thời điểm mà Viện Phật học có tên mới là Viện Đại học Vạn Hạnh[8]. Đồng thời, Thầy cùng với các cộng sự thành lập nhà xuất bản Lá Bối để nói lên tiếng nói của một đạo Bụt mới, khởi xướng một con đường chấm dứt bạo động[9]. “Chúng tôi sử dụng văn hóa và nghệ thuật như một vũ khí’ để chống lại sự đàn áp,” Thầy giải thích. “Sáng tác của các cây bút phản chiến, các nhạc sĩ, nhà thơ, họa sĩ, dù là bất hợp pháp, đều được phát hành rộng rãi. Các bản nhạc phản chiến được hát trên đường phố và trong lớp học, và văn học phản chiến trở thành loại sách được bán nhiều nhất ở Việt Nam, thậm chí còn lọt vào các đơn vị quân đội.”[10] Không lâu sau đó, Thầy trở thành chủ bút của tuần san Hải Triều Âm – cơ quan thông tin văn hóa của Viện Hóa Đạo thuộc GHPGVNTN. Tờ báo ngày càng được nhiều người biết đến. 50 ngàn bản đã được in mỗi tuần, được chuyển ra Huế và Đà Nẵng bằng đường hàng không. Đó là tờ báo đầu tiên công khai đăng các bài thơ và nhạc về hòa bình, đồng thời với các bài tham luận Phật giáo quan trọng, các bài tường trình về hành động tuyệt thực để biểu tình của tăng ni và các cuộc phản đối sự áp bức của chính quyền. Các bài thơ về hòa bình của Thầy, được viết theo thể thơ tự do, trở nên rất nổi tiếng và chạm đến trái tim của hàng triệu người dân Việt. Mặc dù Thầy chưa bao giờ gọi thơ của mình là “thơ tự do” nhưng những bài thơ của Thầy được xem là những tác phẩm tiêu biểu của phong trào Thơ Mới[11]. Tháng Mười một năm 1964, một nạn lụt lớn tại miền Trung đã cướp đi hàng ngàn sinh mạng và cuốn trôi hết nhà cửa. Nạn nhân trong những vùng có giao tranh chịu thiệt thòi nhất vì không ai dám tới tận nơi để cứu trợ. Thầy, sư chú Nhất Trí và chị Phượng đã tổ chức một đoàn thuyền cứu trợ có treo cờ Phật giáo và biểu ngữ cho biết đây là đoàn thuyền cứu trợ, đi ngược dòng Thu Bồn dưới những làn đạn để phân phát lương thực và các vật dụng cần thiết cho bà con tại huyện Đức Dục, tỉnh Quảng Nam. Đoàn đã gặp những trẻ em trúng đạn mình đầy máu me, những thanh niên xanh xao thiếu ăn, những người cha đang khổ đau vì cả gia đình đã bị lũ cuốn đi. Đêm hôm đó, Thầy đã cắt đầu ngón tay, nhỏ máu xuống dòng sông Thu Bồn và phát nguyện sẽ không bao giờ quên đồng bào khổ cực chết vì thiên tai, vì bom đạn ở những vùng xa xôi như vậy[12]. Làm công tác phụng sự xã hội trong bầu không khí đầy nghi kỵ, hận thù, sợ hãi và bạo động thật vô cùng khó khăn. Hiểm nguy có thể đến từ bất cứ bên nào, bất cứ lúc nào. Bạn bè của Thầy đã bị bắt bớ, các tác viên xã hội bị đe dọa, và hiểm nguy, bạo động lúc nào cũng có thể xảy ra. “Nếu không có một sự thực tập tâm linh, bạn không thể nào sống nổi,” Thầy giải thích[13]. “Đạo Bụt dấn thân đã được sinh ra trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn như vậy. Chúng tôi muốn duy trì sự thực tập của mình trong khi đối diện với khổ đau. Chúng tôi thực tập thiền hành ngay tại nơi mà đồng bào vẫn đang chạy dưới bom đạn. Và chúng tôi học cách trở về với hơi thở chánh niệm trong khi giúp chăm sóc cho một em bé bị thương vì trúng bom đạn”[14]. Chỉ có hơi thở chánh niệm mới có thể giúp cho các tác viên xã hội không bị những cảm xúc mạnh kéo đi, có đủ bình an để biết cái gì cần làm và cái gì không nên làm trong khi thực hiện công tác cứu trợ. Khổ đau và khó khăn đã trở thành những người thầy lớn của các tác viên xã hội lúc bấy giờ. “Điều khó khăn nhất là không để mất hy vọng, không đầu hàng tuyệt vọng,” Thầy nói. “Trong hoàn cảnh khổ đau tột cùng như vậy, chúng tôi phải thực tập như thế nào để giữ được hy vọng và lòng từ bi của mình.”[15] Cũng trong thời gian này, một trong những làng mà họ đang giúp tái thiết gần vùng phi quân sự đã bị ném bom. Họ xây lại làng. Khi làng bị ném bom lần thứ hai, các tác viên xã hội hỏi Thầy là có nên dựng lại làng nữa hay không, và Thầy đã trả lời “Nên”. Làng lại tiếp tục bị ném bom lần thứ ba. Và khi được hỏi, Thầy suy nghĩ một hồi lâu rồi trả lời “Nên”. Sau này Thầy giải thích “Có vẻ không có một hy vọng nào là chiến tranh sẽ kết thúc, bởi vì chiến tranh đã kéo dài quá lâu. Tôi phải thực tập thở và trở về với chính mình trong giây phút đó, khi các bạn trẻ hỏi tôi. Phải thú thật là lúc ấy tôi chẳng có hy vọng gì nhiều, nhưng nếu tôi không còn hy vọng thì tôi sẽ khiến cho các bạn trẻ đau buồn và tuyệt vọng. Tôi phải thực tập thật sâu sắc và nuôi một chút hy vọng le lói trong lòng để trở thành nơi nương tựa cho các em.”[16] Cho đến thời điểm tháng Sáu năm 1965, ở miền Nam Việt Nam, phe quân sự đã giành chính quyền; bạo động và đàn áp nổi lên khắp nơi. “Quyền tự do dân sự bị hạn chế, những người có quan điểm chính trị đối lập – bị tố cáo là trung lập hoặc thân cộng sản – đều bị bắt bỏ tù; các đảng chính trị được phép hoạt động với điều kiện là họ không được công khai chỉ trích chính sách của nhà cầm quyền”[17]. Các trận đánh du kích vẫn tiếp tục diễn ra. Thầy tiếp tục viết những bài thơ kêu gọi hòa bình, nói lên những đau thương cùng cực của người dân trong cảnh bom đạn của chiến tranh. Tập thơ của Thầy, Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện, được xuất bản năm 1965. Hơn 3000 bản đã được bán hết trong vòng hai tuần lễ. Không lâu sau đó, những bài thơ của Thầy bị hai bên lâm chiến công kích trên đài phát thanh, gọi là “thơ phản chiến” làm an ninh của Thầy bị đe dọa[18]. Mặc dù vậy, tập thơ này vẫn được in chui và phổ biến rộng rãi. Những bài thơ của Thầy được phổ nhạc và trở thành các bài hát cho hòa bình được nhiều người ưa thích, thường được hát trên đường phố hoặc trong các buổi hội họp của sinh viên học sinh. Phạm Duy, một trong những nhạc sĩ nổi tiếng đã viết 10 bài Tâm ca, lấy cảm hứng từ các bài thơ và thông điệp của Thầy “Kẻ thù ta không phải là con người”[19]. Năm 1965, lo ngại quân cộng sản chiếm ưu thế, Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B Johnson đã gửi một đội quân viễn chinh Mỹ đầu tiên đến Việt Nam. Đến mùa hè thì đã có hơn 125 ngàn lính Mỹ trên đất Việt. Thầy và các nhà trí thức hàng đầu ở Việt Nam nhận ra rằng gốc rễ của cuộc chiến thực sự nằm ở Tây phương và sự yểm trợ của các nhà lãnh đạo tâm linh và nhân quyền nổi tiếng ở Tây phương là rất cần thiết để giúp công luận có một cái nhìn khác về cuộc chiến tranh Việt Nam. “Qua hai cuộc chiến tranh, chúng tôi đã chứng kiến những người lính Pháp đến Việt Nam để giết và bị giết, và những người Mỹ trẻ tuổi cũng đến đây để giết và bị giết”, Thầy nói[20]. “Tôi có thể thấy nguyên nhân gây ra khổ đau ở Việt Nam không phải là từ những người lính Mỹ mà là từ một chính sách không có tuệ giác, một chính sách được làm bởi sợ hãi và cái thấy sai lệch.”[21] Vì lý do đó mà Thầy cùng với các cộng sự nhất trí rằng Thầy nên viết thư cho Mục sư Martin Luther King Jr vào tháng 6 năm 1965, còn những vị khác thì viết thư cho Jean-Paul Sartres, Henry Miller, Trong bức thư gửi Mục sư King, Thầy đã giải thích về lòng từ bi ẩn chứa trong hành động tự thiêu của các tu sĩ Phật giáo cho hòa bình. Và Thầy viết “Ở đây không ai muốn chiến tranh cả. Vậy thì chiến tranh để làm gì? Và chiến tranh cho ai? […] Tôi biết chắc rằng bởi vì Mục sư đã từng dấn thân vào một cuộc tranh đấu cam go nhất cho bình đẳng và nhân quyền, Ngài là một trong những người có thể hiểu thấu và chia sẻ được những đau khổ không bờ bến của dân tộc Việt. Các nhà nhân bản lớn trên thế giới chẳng thể nào ngồi yên và giữ yên lặng được. Ngài không thể im lặng được”[23]. Một năm sau đó, khi hai vị gặp nhau tại Chicago thì Mục sư King đã tham gia vào Ủy ban Lương tâm Quốc tế về vấn đề Việt Nam International Committee of Conscience on Vietnam. Mùa hè năm 1965, Thầy và các cộng sự chính thức thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội TNPSXH, một mô hình chính quy cho các dự án thí điểm mà Thầy và một nhóm các sinh viên trẻ – còn được gọi là nhóm “13 cây tùng”- khởi xướng trước khi Thầy rời Việt Nam. Giờ đây hướng đi của trường là xây dựng nên một tổ chức hoạt động xã hội chính quy, gắn liền với quần chúng, trung lập về chính trị, một nơi đào luyện cho người trẻ những kỹ năng thực tế và giúp họ có tinh thần vững vàng để có thể đi về những làng mạc nghèo khổ bị bom đạn tàn phá, giúp dân xây trường học, bệnh xá, làm nhà ở cho người vô gia cư và tổ chức những hợp tác xã nông nghiệp[24]. Trường tập trung vào bốn lĩnh vực giáo dục, sức khỏe & vệ sinh, kinh tế và tổ chức. Các học viên của trường TNPSXH giúp dân làng dựng các trường học bằng tre lợp lá dừa và bắt đầu dạy học. Các tác viên còn dạy dân làng làm hệ thống tưới tiêu ngoài đồng và phương pháp trồng nấm rơm. Họ giúp đào các hố tiêu tự hoại, xây các bệnh xá để chữa tiêu chảy và các bệnh nhiễm trùng[25]. Thời gian đó Thầy đã ghi lại “Chúng tôi thấy rõ điều đó và đã quyết định với nhau rằng một phong trào dựng lại xứ sở cần được đặt trên một căn bản hoàn toàn khác biệt. Chúng tôi muốn mở một mặt trận chống lại nghèo đói, ngu dốt, bệnh tật và vô tổ chức”[26]. Trường TNPSXH đã thu hút những người trẻ có nhiệt tâm muốn hành động để làm thay đổi tình trạng, những người muốn chọn một con đường bất bạo động, thay vì phải theo phe cộng sản hay phe chống cộng. Cũng như những người làm cách mạng, tham gia TNPSXH đòi hỏi sự dấn thân và hy sinh. Tương tự như những thành viên của Đoàn thanh niên phụng sự Hòa bình Peace Corps của Mỹ, các tác viên xã hội không có lương, chỉ có một ít tiền để ăn trưa, công tác phụng sự của họ được làm bằng tấm lòng. Tuy nhiên, thật chóng vánh, người ta có thể thấy rõ ràng là sự trung lập về chính trị vừa là điểm mạnh nhất nhưng cũng là điểm làm TNPSXH gặp nhiều hiểm nguy nhất. Với một đất nước bị chia cắt nặng nề, thậm chí sự trung lập cũng làm cho cả hai phe lâm chiến cảm thấy bị đe dọa. Thầy đã làm bài thơ Dặn dò[27] để nhắn nhủ các sinh viên của mình giữ gìn tâm từ bi và không bị rơi vào tuyệt vọng khi phải đối diện với bạo động và bất công trên con đường phụng sự Xin hứa với tôi hôm nayTrên đầu chúng ta có mặt trờiVà buổi trưa đứng bóngRằng không bao giờ em thù hận con ngườiDù con ngườiCó đổ chụp trên đầu emCả ngọn núi hận thùTàn bạo,Dù con ngườiGiết em,Dù con ngườiDẫm lên mạng sống emNhư là dẫm lên giun dế,Dù con người móc mật moi gan emĐầy ải em vào hang sâu tủi nhục,Em vẫn phải nhớ lời tôi căn dặnKẻ thù chúng ta không phải con đáng chỉ có tình xót thươngVì tôi xin em đừng đòi điều kiện Bởi không bao giờOán hờn lên tiếngĐối đáp đượcSự tàn bạo con người. Thầy đã được một đoàn thể rất mạnh gồm các bạn bè và cộng sự yểm trợ trong việc thực hiện chí nguyện của mình. Thầy Thanh Văn, đệ tử của một trong các huynh đệ của Thầy, là người rất tận tụy và đã trở thành giám đốc đầu tiên của trường TNPSXH. Thầy Châu Toàn, đệ tử duy nhất của HT. Thích Mật Thể – người khởi xướng phong trào đạo Bụt dấn thân đã gây cảm hứng sâu sắc cho Thầy khi Thầy còn là một người tu trẻ, đã trở thành Tổng thư ký của tờ Hải Triều Âm. Sư chú Nhất Trí, người đệ tử xuất gia đầu tiên của Thầy, là một tác viên xã hội mẫu mực, một tấm gương của sự khiêm nhường và lòng từ bi. Chị Phượng, Chủ tịch hội sinh viên Phật tử Viện Đại học Vạn Hạnh, trở thành một lãnh đạo hăng say và tháo vát trong các công tác xã hội của trường[28]. Bất chấp tất cả những hiểm nguy, thử thách mà các tác viên xã hội phải dối diện hàng ngày trong công tác, những năm giữa thập niên 1960 là thời gian của sự đoàn kết, của tình huynh đệ và niềm vui trong công việc xây dựng cộng đồng. Cộng đồng TNPSXH là một tập thể trẻ, năng động đang hướng tới một tương lai đầy hy vọng và hòa giải. Thầy yêu cầu tất cả các tác viên mỗi tuần một lần, dù bất cứ chuyện gì xảy ra cũng phải tập họp ở chùa Trúc Lâm, Gò Vấp để cùng nhau thiền tọa, thiền hành, ăn với nhau một bữa cơm và cùng ngâm thơ, ca hát với nhau để lấy lại tinh thần. Tháng Hai năm 1966, Thầy tiến thêm một bước nữa trong công việc xây dựng cộng đồng bằng cách thành lập dòng tu Tiếp Hiện, một dòng tu mới dựa trên giới Bồ Tát truyền thống, trình bày được cái thấy mới về một đạo Bụt dấn thân hiện đại. Dòng tu Tiếp Hiện chuyên chở giáo lý của Thầy về việc “không theo phe trong một cuộc tranh chấp”, và nhấn mạnh đến việc không bị vướng mắc vào một quan điểm hoặc một ý thức hệ nào. Đối với Thầy, những giới này chính là “câu trả lời trực tiếp cho vấn đề chiến tranh, là câu trả lời trực tiếp cho chủ nghĩa giáo điều khi mà người ta sẵn sàng giết hoặc chết cho niềm tin của mình”[29]. Sau này Thầy nói “Là những Phật tử thực tập theo con đường hòa bình và hòa giải, chúng ta không thể nào chấp nhận một cuộc chiến mà trong đó anh em một nhà dùng ý thức hệ và vũ khí của bên ngoài để tàn sát lẫn nhau. Dòng tu Tiếp Hiện được lập ra như một phong trào phản kháng tâm linh”[30]. Sáu vị Tiếp Hiện đầu tiên trong đó có chị Phượng là những tác viên xã hội năng nổ, hết lòng đem lý tưởng của đạo Bụt áp dụng vào đời sống thực tế, họ yểm trợ lẫn nhau trong việc kết hợp đời sống tâm linh vào hoạt động xã hội. Mỗi tuần họ đều đến chùa lá Pháp Vân để cùng tụng giới với nhau[31]. Trong những thập niên kế tiếp, Thầy tiếp tục làm mới Mười bốn giới Tiếp Hiện, và những giới này đã trở thành kim chỉ nam đạo đức giúp định hướng cho hoạt động dấn thân. Đến hôm nay, đã có hơn 3000 thành viên thuộc dòng tu Tiếp Hiện trên toàn thế giới. Sau này Thầy viết “Chiến tranh Việt Nam, trước hết và trên hết, là một cuộc tranh đấu về ý thức hệ. Để bảo đảm cho sự sống còn của dân tộc, chúng tôi phải vượt qua thái độ cuồng tín của cả hai phía cộng sản và chống cộng sản và duy trì sự trung lập một cách cực kỳ nghiêm mật. Người Phật tử làm hết sức mình để nói lên tiếng nói của cả dân tộc mà không theo phe phái, nhưng chúng tôi đã bị lên án là thân cộng’. Cả hai bên lâm chiến đều hô hào rằng họ nói lên mong muốn đích thực của dân chúng, nhưng miền Bắc là tiếng nói của khối cộng sản, và miền Nam là tiếng nói của khối tư bản. Người Phật tử chỉ muốn tạo ra một phương tiện để tiếng nói của người dân được lắng nghe – và người dân chỉ muốn hòa bình mà không phải là chiến thắng’ cho bên này hoặc bên kia”[32]. Nhưng, Thầy nói, “tiếng máy bay và tiếng bom quá lớn. Người dân trên thế giới không thể nghe được tiếng nói của dân tộc chúng tôi. Vì vậy tôi đã quyết định sang Hoa Kỳ để vận động chấm dứt chiến tranh”[33]. _________________ [1] Phong trào tranh đấu bất bạo động này được gọi là “Lực lượng thứ ba” trong bối cảnh chính trị ở Việt Nam vào thời điểm đó. [2] Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được chính thức thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 1963, hợp nhất tất cả các tông phái Phật giáo Việt Nam lại thành một giáo hội duy nhất. Đây là kết quả từ sự nỗ lực của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam từ 10 năm trước. [3] Thầy đã gặp các vị lãnh đạo của GHPGVNTN vào ngày và mời quý Hòa thượng Trí Thủ, Thiện Hoa và Thiên Ân cùng tham gia vào công trình này. [4] Quý thầy gồm có Đồng Bổn, Thanh Văn, Thanh Tuệ, Thanh Hương, Thanh Hiện, Từ Mẫn, Châu Toàn, Nhất Trí; và các bạn sinh viên gồm có Tâm Quang, Tâm Thái, Thu Hà, Trà Mi, Phùng Thăng. [5] Sư chú Nhất Trí đã từng theo học và thọ Năm giới với Thầy tại B’lao. Năm 1964, sư chú đã được Thầy thế phát xuất gia. [6] Dự án Làng Thảo Điền do chị Phượng khởi xướng. Sư chú Nhất Trí đã sống và làm việc tại chính ngôi làng này. [7] Trích Nẻo về của ý – NXB Văn hóa Sài Gòn, “Thỉnh thoảng Lý hỏi tôi có nghèo’ lắm không. Tôi nói nghèo lắm thì cũng chưa phải là nghèo. Nghèo mấy thì cũng còn có ánh trăng bên cửa sổ, khi điện thành phố bị cúp. Đó là lời nói theo kiểu thơ hài cú’haiku của thi sĩ Ba Tiêu Basho. Lý cười ha hả và móc túi đưa cho tôi năm bảy trăm đồng, nói rằng trả tiền cái truyện ngắn đăng trên báo của Lý. Tôi không nhớ là Lý đã đăng truyện gì của tôi, nhưng mà tôi cứ nhận tiền của Lý như thường. ” – Trích Nẻo về của ý – NXB Văn hóa Sài Gòn, [8] Viện Đại học Vạn Hạnh được Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa cấp giấy phép ngày Kể từ khi Thầy không được phép trở về quê hương, tên của Thầy đã không còn được ghi trong lịch sử của Viện Đại học Vạn Hạnh, dù Thầy là người sáng lập. [9] Những cuốn sách của Thầy như Đạo Phật Hiện Đại Hóa, Nói Với Tuổi Hai Mươi đều được phát hành vào năm 1965. Qua những tác phẩm này, Thầy đã nói lên được những sợ hãi, hoang mang và hy vọng của thế hệ trẻ và chỉ ra cho họ một hướng đi. [10] Trích từ cuốn sách của Thầy Love in Action Writings on Nonviolent Social Change 1993, [11] Nhà thơ Vũ Hoàng Chương – người phụ trách trang thơ của tuần san Hải Triều Âm – đã nói với thầy Châu Toàn rằng “tuy các anh ở nhóm Sáng Tạo lăng xê’ thơ tự do nhiều như thế, nhưng rốt cuộc theo ông thì những bài thơ hoà bình’ của thầy Nhất Hạnh đăng trong Hải Triều Âm lại là những bài thơ tự do thành công nhất, tuy chưa bao giờ thầy nói thơ thầy là thơ tự do” nguồn tác phẩm Bây giờ mới thấy, NXB Phương Đông, [12] Thơ Ruột đau chín khúc – Tập thơ Cho bồ câu trắng hiện [13] Trích phần trả lời của Thầy trong buổi vấn đáp tại tu viện Bích Nham, ngày [14] Pháp thoại của Thầy tại Làng Mai, ngày [15] Trích phần trả lời của Thầy trong buổi vấn đáp tại tu viện Bích Nham, ngày [16] Trích từ tác phẩm At Home in the World 2016, bài “Not Giving Up,”. [17] Trích từ Bách khoa toàn thư Encyclopaedia Britannica 2020, phần nói về chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954 – 1965 “The two Vietnams 1954–65” [18] Thầy chưa bao giờ xem những bài thơ của mình là “thơ phản chiến”. Thầy nói rằng những bài thơ đó chẳng “chống” bất cứ cái gì; nó chỉ đơn thuần là “những bài thơ kêu gọi hòa bình” mà thôi. [19] “Kẻ thù của chúng ta là cuồng tín, là bạo tàn Là tham lam, là vu khống Kẻ thù chúng ta không phải con người – dù con người gọi là Việt cộng – Giết con người đi rồi, chúng ta ở với ai ? ” – Trích từ bài thơ Chiến tranh, trong tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện. [20] Trích phần trả lời của Thầy trong buổi vấn đáp tại tu viện Bích Nham, ngày [21] Trích pháp thoại công cộng của Thầy tại nhà thờ Riverside, thành phố New York, ngày ngay sau sự kiện [22] Những lá thư này đã được NXB Lá Bối in trong tác phẩm Dialogue Đối thoại bằng tiếng Anh vào năm 1965. Hồ Hữu Tường viết cho Jean Paul Sartres; Tam Ích viết cho André Malraux; Bùi Giáng viết cho René Char; and Phạm Công Thiện viết cho Henry Miller. [23] Lá thư của Thầy gửi cho Mục sư King Bản dịch tiếng Việt [24] Để hiểu thêm về hoạt động của trường TNPSXH, xin xem tại đây. Mô hình trường TNPSXH được Thầy lấy cảm hứng từ Đoàn thanh niên phụng sự Hòa Bình Peace Corps của Mỹ, phong trào kibbutz mô hình kinh tế nông thôn ở Israel cũng như mô hình ashram và các công tác xã hội của Vinoba Bhave ở Ấn Độ. Vào tháng 11 năm 1966, Thầy còn đi Philippines để quan sát và học hỏi kinh nghiệm từ phong trào tái thiết nông thôn của quốc gia này. [25] Pháp thoại của Thầy tại Làng Mai, ngày [26] Trích Nẻo về của ý, NXB Văn hóa Sài Gòn, – 204 [27] Trích từ tập thơ Tiếng đập cánh loài chim lớn [28] Đọc thêm Con đường mở rộng 52 năm theo Thầy học đạo và phụng sự để hiểu thêm về Sư cô Chân Không chị Phượng [29] Pháp thoại của Thầy tại Hà Nội, ngày [30] Pháp thoại của Thầy tại Hà Nội, ngày với chủ đề “A History of Engaged Buddhism” Lịch sử đạo Bụt Dấn thân [31] Chùa Pháp Vân còn được gọi là chùa Lá, vì chùa được lợp bằng lá cho giống với chùa của người dân nghèo. Chùa được xây dựng theo thiết kế của Thầy. Chùa Lá là trái tim của trường TNPSXH, là cái nôi của dòng tu Tiếp Hiện. Chính tại nơi đây, Thầy đã truyền giới Tiếp hiện cho 6 thành viên đầu tiên của dòng tu. Năm 1967, năm tác viên của trường bị bắn tại bờ sông, trong đó bốn người chết và một người bị thương. Bốn tác viên bị bắn chết đã được chôn tại khu vườn nằm trong khuôn viên của chùa Lá. Ngày nay, chùa Pháp Vân là một trong những ngôi chùa lớn nhất ở Tp. Hồ Chí Minh. Khi đến thăm chùa, ta vẫn có thể đến viếng khu vườn tưởng niệm các tác viên của trường TNPSXH đã hy sinh. [32] Trích từ tác phẩm Love in Action, [33] Trích pháp thoại công cộng của Thầy tại nhà thờ Riverside, thành phố New York, ngày ngay sau sự kiện Tiểu sử Vạn Hạnh Thiền Sư 938 1025 Vạn Hạnh 938 – 1025 là tên một vị thiền sư thời Tiền Lê có nhiều đóng góp trong việc mở ra triều đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cố vấn của vua Lê Đại Hành, là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông cũng là một nhà tiên tri. Thiền sư họ Nguyễn, quê châu Cổ Pháp, nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, từ thuở nhỏ đã thông minh, học thông Nho, Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm bộ luận Phật giáo. Năm 21 tuổi ông xuất gia, tu học với bạn là thiền sư ịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ. Sau khi Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập Tổng Trì Tam Ma ịa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm. Vua Lê ại Hành rất tôn kính ông. Năm 980, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt, vua triệu ông vào hỏi nếu đánh thì thắng hay bại. Ông đáp trong vòng từ ba đến bảy ngày giặc sẽ rút lui. Lời này sau ứng nghiệm. Khi vua Lê ại Hành muốn can thiệp vào Chiêm Thành để cứu sứ giả bị Chiêm Thành bắt giữ nhưng còn do dự, thì Vạn Hạnh nói đây là cơ hội đừng để mất. Sau đó lời này nghiệm, và trận ấy quân Lê thành công. Trong cuộc vận động Lý Công Uẩn lên ngôi, ông đã tác động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu. Sách Thuyền Uyển Tập Anh nói những loại sấm truyền và tiên tri ông dùng có rất nhiều thứ không kể hết được. Sách này kể ra một vài phương pháp đã dùng Hồi Lê Ngọa Triều đang thi hành chính sách bạo ngược bị thiên hạ ghét bỏ, thì tại Cổ Pháp có một con chó trắng xuất hiện trên lưng nó có hai chữ “thiên tử” lấm tấm bằng lông đen. Thiên hạ bèn đồn rằng con chó là tượng trưng cho năm Tuất, và một bậc thiên tử sẽ sinh vào năm Tuất sẽ xuất hiện cũng vào năm Tuất tức năm 1010. Ngày Rằm tháng Năm năm Thuận Thiên thứ 9 tức 30 tháng 6 năm 1018, khi công hạnh đã viên mãn, Thiền sư gọi đồ chúng lại dặn dò, đọc bài kệ rồi thị tịch. Vua Lý Thái Tổ và tất cả triều thần nhà Lý đến làm lễ Trà tỳ, thỉnh Xá lợi của ngài về thờ tại chùa Tiêu Sơn Bắc Ninh.[3] bài kệ như sau "Thân như bóng chớp có rồi không Cây cối xanh tươi thu não nùng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông". Vua Lý Nhân Tông 1072-1127 có bài kệ "Truy tán Vạn Hạnh thiền sư" Toàn văn bài kệ Vạn Hạnh dung tam tế Chân phù cổ sấm cơ Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích trấn vương kỳ Bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình Vạn Hạnh thông ba cõi Thật hợp lời sấm xưa Quê hương tên Cổ Pháp Chống gậy trấn kinh vua Bản dịch của Nguyễn Văn Trình 1872-1949 Học thông tam giới ghê thay Rằng thầy Vạn Hạnh thi tài rất cao. Cửa làng Cổ pháp tiếng reo Gậy tăng đủng đỉnh bay vào Đế đô. Trước năm 1975, ở miền nam Việt Nam có một viện đại học mang tên ông là Viện Đại học Vạn Hạnh. Hiện nay, nhiều thành phố ở Việt Nam có tên đường "Sư Vạn Hạnh" để tưởng nhớ một vị thiền sư đã ghi lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc. Đại Việt Sử ký toàn thư có ghi lại bài Sấm – Vĩ của Vạn Hạnh Thọ căn diễu diễu Mộc biểu thanh thanh Hoa đào mộc lạc Thập bát tử thành Đông a nhập địa Dị mộc tái sanh Chấn cung kiến nhật Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian Thiên hạ thái bình Dịch là Gốc cây thăm thẳm Ngọn cây xanh xanh Cây hoa đào rụng Mười tám hạt thành Cành đông xuống đất Cành khác lại sanh Đông mặt trời mọc Tây sao ẩn hình Sáu bảy năm nữa Thiên hạ thái bình Sưu tầm - Ban Tuyên giáo TĐ THIỀN SƯ VẠN HẠNH 938?-1018 Quốc Sư Việt Nam oOo Thiền Sư họ Nguyễn, quê ở làng Cổ Pháp, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã thông minh khác thường, thông suốt tam học và nghiên cứu Bách Luận mà vẫn xem thường công danh phú quý. Năm 21 tuổi Sư xuất gia, cùng Thiền Sư Định Huệ thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Khi việc rảnh rỗi, Sư học hỏi quên cả mỏi mệt. Sau khi Thiền Ông tịch, Sư kế tiếp trụ trì chùa này và chuyên tập pháp “Tổng Trì Tam-ma-địa”, lấy đó làm sự nghiệp. Bấy giờ Sư có nói ra lời gì dân chúng đều cho là lời sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính Sư. Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất 980, tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta, đóng binh ở Cương Giáp, Lãng Sơn; vua Lê Đại Hành mời Sư đến hỏi – Quân ta thắng bại thế nào? Sư đáp – Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui. Quả đúng như lời Sư đoán. Có kẻ gian tên Đỗ Ngân âm mưu hại Sư. Biết trước sự việc, Sư đưa cho y một bài thơ Thổ mộc tương sanh Cấn bạn Câm [kim]* Vân hà mưu ngã uẩn linh khâm? Đương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt Chân chí vị lai bất hận tâm. Dịch Thổ mộc sanh nhau Cấn với Kim Vì sao ôm ấp lòng hận phiền? Bấy giờ tôi biết lòng buồn dứt Thật đến sau này chẳng bận tâm. * Thổ Mộc là Đỗ, Cấn Kim là Ngân. Được thơ này gã Ngân hoảng sợ không tiến hành mưu hại nữa. Lúc vua Lê Ngọa Triều ở ngôi quá tàn bạo, mọi người đều oán ghét. Khi ấy Lý Thái Tổ còn làm chức Thân Vệ, chưa lên ngôi. Bấy giờ trong nước có những điềm lạ xuất hiện liên miên. Tùy theo chỗ thấy nghe, Sư đều bàn giải phù hợp với triệu chứng nhà Lê sắp mất, nhà Lý lên thay. Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục Tổ mà vẫn biết trước, báo tin cho chú và bác vua Lý hay “Thiên tử đã băng hà, Lý Thân Vệ đã khuất phục trong thành nội, túc trực trong vài ngày Thân Vệ ắt được thiên hạ.” Và để chiêu an bá tánh, Sư ra yết thị rằng Tật Lê trầm bắc thủy Lý tử thọ nam thiên Tứ phương qua can tịnh Bát biểu hạ bình an. Dịch Tật Lê chìm biển Bắc Cây Lý che trời Nam Bốn phương binh đao dứt Tám hướng thảy bình an. Niên hiệu Thuận Thiên thứ chín 1018 ngày rằm tháng năm, Sư không bệnh chi, mà gọi Chúng nói kệ Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thạnh suy vô bố úy Thạnh suy như lộ thảo đầu phô. Dịch Thân như bóng chớp có rồi không Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng Mặc cuộc thạnh suy không sợ hãi Thạnh suy như cỏ hạt sương đông. Nói xong, Sư lại bảo Chúng “Các ngươi cần trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ.” Ngừng giây lát, Sư tịch. Vua Lý Thái Tổ và đệ tử làm lễ hỏa táng, nhặt Xá-lợi xây tháp cúng dường. Về sau vua Lý Nhân Tông có làm bài truy tán Sư rằng Vạn Hạnh dung tam tế Chơn phù cổ sấm cơ [ky] Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích trấn vương kỳ. Dịch Vạn Hạnh thông ba mé Thật hợp lời sấm xưa Quê nhà tên Cổ Pháp Dựng gậy vững kinh vua./. Tượng Thiền Sư Vạn Hạnh tại chùa Tiêu Thiên Tâm Tự, Bắc Ninh, Việt Nam. Phần đọc thêm Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam có một viện đại học mang tên Thiền Sư là Viện Đại Học Vạn Hạnh, tọa lạc ngay dưới dốc cầu Trương Minh Giảng, đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn nay là cầu Công Lý, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa nhưng nay đã bị trưng thu. Hiện nay, nhiều thành phố, thị xã ở Việt Nam có tên đường “Sư Vạn Hạnh” để tưởng nhớ một vị thiền sư đã ghi lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi lại bài sấm – vĩ của Thiền Sư Vạn Hạnh Thọ căn diễu diễu Mộc biểu thanh thanh Hoa đào mộc lạc Thập bát tử thành Đông a nhập địa Dị mộc tái sanh Chấn cung kiến nhật Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian Thiên hạ thái bình. Dịch Gốc cây thăm thẳm Ngọn cây xanh xanh Cây hoa đào rụng Mười tám hạt thành Cành đông xuống đất Cành khác lại sanh Đông mặt trời mọc Tây sao ẩn hình Sáu bảy năm nữa Thiên hạ thái bình./. *** Di ảnh trong bài là bản mô phỏng vẽ lại. Vạn Hạnh 938 – 1025 là tên một vị thiền sư người Việt có nhiều đóng góp trong việc mở ra triều đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cố vấn của vua Lê Đại Hành, là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông cũng là một nhà tiên tri. Trích từ tác phẩm Thiền Sư và Tư Tưởng Giác Ngộ, xuất bản năm 1987. I. CON NGƯỜI VẠN HẠNH VÀ CÔNG CUỘC CÁCH MẠNG Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị. Trong Thuyền Uyển Tập Anh ghi lại con người Vạn Hạnh như sau “Sư họ Nguyễn quê ở làng Cổ Pháp, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã thông minh khác thường, học khắp Tam Giáo và nghiên cứu Bách Luận, mà vẫn xem thường công danh phú quí. Năm 21 tuổi Sư theo Thiền Sư Định Tuệ xuất gia và thọ học với Thiền ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức. Khi việc chùa rỗi rảnh, Sư chăm chỉ học tập quên cả mỏi mệt. Sau khi Thiền ông tịch, Sư kế tiếp trụ trì chùa nầy và chuyên tập pháp “Tổng Trì Tam Ma Địa” lấy đó làm sự nghiệp. Bấy giờ Sư có nói ra lời gì dân chúng đều cho là lời sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính Sư.” Qua những nét ghi lại con người Vạn Hạnh ta thấy có những điểm quan trọng, trong tiến trình tâm linh mà đã tạo dựng nên một Vạn Hạnh siêu việt, độc đáo phi thường trong lịch sử. Trước hết, là điểm thông minh khác thường mà Thuyền Uyển Tập Anh muốn đề cập tới, có phải chăng đó là ý thức về khả năng siêu hoạt siêu thức trong một tâm linh, và biến những tác động hưng khởi ở nội và ngoại tại không nghịch lý trong việc tạo nên tương quan thiết dụng cho con người? Dung hòa những phức tạp xuất hiện trong ý thức để hoán chuyển thành nguồn thực dụng nuôi dưỡng tâm linh siêu thể? Có phải chăng đó là điều mà sau này Vạn Hạnh đã phát huy cho cả cuộc đời của mình? Đồng thời Vạn Hạnh còn thông suốt tường tận ba luồng tư tưởng phổ thông của thời bấy giờ. Ba tư tưởng đó là Nho học, Đạo học, và Phật học. Dĩ nhiên ba luồng tư tưởng nầy vốn có những nét dung hợp và đồng thời có những điểm khác biệt trong vài khía cạnh. Về Khổng Học, chỉ dùng suy tư và học tập “có học lại những kinh nghiệm của người xưa mà không phê phán suy nghĩ thì mơ hồ, suy nghĩ phê phán mà không có tài liệu học tập thì nguy hại” Cái học nầy là giáo điều không uyển chuyển nên lắm lúc tạo những tôn thờ phi lý không dám đối nghịch lại một vài dữ kiện không thích hợp với bối cảnh và trạng huống trái ngược. Dung hòa cả ba tư tưởng ấy trong con người của Ngài hẳn chắc phải sinh ra những tương phản và mâu thuẫn, xung đột trong quan niệm, và nếu có tổng hợp thì điều này cũng trá hình của những sinh khắc, vì vậy Vạn Hạnh chưa tìm ra được tổng thể bất phân ly trong những luồng tư tưởng ấy. Muốn truy tìm và giải quyết những nguyên lý phức tạp mâu thuẫn đổ vỡ nầy Vạn Hạnh đã phải nghiên cứu đến Bách Luận của Long Thọ Bồ Tát – dùng biện chứng trực giác về hiện tượng và phủ định sự có mặt giữa giả hợp danh sắc, quật khai thực tại tuyệt đối không bị lệ thuộc bởi những chi phối giả hợp của thời không. Cũng chính nhờ sự quật khai của Tam Luận Tông nầy Vạn Hạnh đã quân bình nội tại và để từ đó nổ tung ra trên hành trình giải phóng tâm linh và mang lại ánh sáng siêu việt cho Dân Tộc. Và cũng nhờ vào những kinh nghiệm tri thức mà Vạn Hạnh trải qua mới tạo nên luồng Văn Hóa đặc thù cho Dân Tộc mà ta có thể tìm thấy trong những phần ở sau. Giới trí thức Việt lúc bấy giờ là những thiền sư uyên thâm bác học, tu tưởng và nội tâm sâu rộng siêu việt, có những thiền sư nổi tiếng lỗi lạc trong nước và gây chấn động đến ngoài nước. Song song trong việc nghiên cứu tu tập về Thiền để đạt được thức giác trong đời sống tâm linh, giải phóng ra khỏi triền phược hệ lụy đang đè nặng trong mỗi người. Còn có khuynh hướng nghiên cứu những Dịch lý, tướng số pháp thuật, lương dược nhằm để khai ngộ và đi vào cuộc đời để dựng xây nền thịnh vượng cho quốc gia. Khuynh hướng nầy rất mạnh trong Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi mà Thiền Sư Định Không là người đầu tiên ứng dụng điều đó. “Năm Trinh Nguyên đời Đường 785 ông dựng ngôi chùa Quỳnh Lâm ở quê nhà. Khi bắt đầu đào móng xây nền, đào được một chiếc hương đề, mười chiếc khánh, sai người đem xuống nước rửa, một chiếc bị chìm xuống nước tới đất mới thôi. Nhân thế mới đổi tên làng ra Cổ Pháp. Và làm một bài tụng rằng Đất trình pháp khí Phẩm chất tinh đồng Đưa Phật giáo đến chỗ hưng long Đặt tên làng là Cổ Pháp Mười chiếc chuông đồng Pháp khí xuất hiện Mười chiếc chuông đồng Nhà lý hưng vương Tám phẩm thành công Khi sắp tịch, Sư nói với đệ tử Thông Thiện rằng “Ta muốn mở rộng làng nhà, nhưng giao thời sợ có tai vạ sắp đến, ắt có kẻ lạ lại phá hoại cảnh thổ ta sau Cao Biền nhà Đường đến trấn yểm Sau khi ta mất, con nên khéo giữ lấy đạo pháp truyền cho người họ Đinh ấy là lòng ta mong mỏi.” Những điều tiên đoán của Định Không sau nầy quả đúng như vậy. Khoảng 200 năm sau xuất hiện bởi nhân vật phi thường ở làng Cổ Pháp đó là Thiền Sư Vạn Hạnh, người dựng nên nhà Lý, cũng có thể Vạn Hạnh là hiện thân nào đó của Định Không? Một con người cưu mang hoài bão hưng phục cho Dân Tộc mà niềm mơ ước nầy chưa thành, thì cũng có thể vì đại nguyện cao cả ngài trở lại để làm một Vạn Hạnh độc dị, siêu nhân trong cả ngàn năm trước và sau chưa có một nhân vật tài ba nào có thể đương đầu nổi. “Trụ tích trấn vương kỳ”. Ngoài công cuộc cách mạng nội tại để đạt đến sự quân bình giữa những dị biệt của 3 luồng tư tưởng mà Vạn Hạnh đã thống hợp làm một, đó là nghiên cứu một cách nghiêm mật về Tam Luận Tông, đả phá và không trụ vào giả tướng. Từ đó Vạn Hạnh đi vào con đường Thiền Tông qua chặng đường của Bách Luận và Tam Ma Địa. Thiền được kể như một môn học thực nghiệm siêu việt nhất trong việc hướng tri thức thoát ra ngoài những kiềm tỏa phi lý của ý thức hệ. Qua vài nét đơn giản của Thiền Uyển Tập Anh ghi lại cuộc đời của Ngài, ta thấy không có một điểm nào kể lại là Vạn Hạnh đạt được thực chứng ở Bách Luận hay Thiền hay Tam Ma Địa? Có một điểm nhấn mạnh ở đó là Vạn Hạnh chuyên tu tập pháp “Tổng Trì Tam Ma Địa” đây là cánh tay phải chứ không hẳn là mấu chốt mà Ngài đã thành tựu. Truy tìm lại Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi ta thấy có bóng dáng của Mật Tông ở đó. Mà Vạn Hạnh thuộc hệ thứ 12 của Thiền Phái nầy. “Tam Ma Địa” theo Trí Độ Luận còn gọi là Tam Muội và Thiền Định cũng gọi là Tam Muội. Đây có thể là diệu dụng nào đó của việc đạt được thực ngộ Thiền. Chứ không hẳn Tam Ma Địa là thực thể có từ bên ngoài. Như vậy hẳn nhiên Vạn Hạnh chứng ngộ là nhờ khai quật nội tâm bằng phương pháp Thiền định qua cửa ngõ và phương pháp hành trì của “Tam Ma Địa” Và cuộc cách mạng mà Vạn Hạnh thực hiện là xoay chuyển vận nước và Dân tộc bước vào thời huy hoàng, và tạo dựng nền Triết lý thực dụng cho giống nòi. II. SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ CỦA THIỀN SƯ VẠN HẠNH Ngoài sự nghiệp thực chứng Vạn Hạnh có được, ngài còn là một nhân vật mang ánh sáng tâm linh đi vào cuộc đời cứu giúp dân xây dựng một nước Việt huy hoàng rực rỡ. Nguyên tố để chuyển hoán được xã hội, không hẳn do một mình Vạn Hạnh mà thành tựu trọn vẹn được, cũng phải nhờ vào những thực lực khác, mà mấu chốt là những con người đang ở vào tư thế chính quyền cai trị, đó là những vị vua. Cái thông minh của Vạn Hạnh là un đúc huấn luyện và có khả năng tiên đoán được vận mệnh trước sau trong con người mà Vạn Hạnh muốn nhắm đến. Ngay từ khi được sự tôn kính của vua Lê Đại Hành, Vạn Hạnh đã tỏ ra xuất sắc trong việc tiên đoán sự thắng bại của quân ta “Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất 980 tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta, đóng binh ở núi Cương Giáp Lãng, vua Lê Đại Hành mời Sư đến hỏi “quân ta thắng bại lẽ nào?” Sư đáp “Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui”. Quả đúng như lời Sư đoán”. Khả năng tiên đoán đó phải chăng nhờ tự nội tâm thực chứng thông suốt được quá khứ hiện tại và vị lai? Sự tương quan giữa một tâm linh với vạn vật trong vũ trụ vốn có sẵn trong mỗi tâm thức, nếu khơi dậy đúng mức thì sơn hà đại địa nằm trong lòng bàn tay không ở đâu xa. Con người vốn chứa đựng và là tiểu vũ trụ, sự quan hệ tương hợp với đại vũ trụ không phải là điều huyền ảo. Nếu quật tung những bí ẩn đang nấp kín thì có thể trông thấy được thế giới rộng lớn bao la trong đôi mắt. Những xoay vần chuyển động trong đó, như mấu gút đang tuần tự tháo gỡ ở trong ta. Khả năng nầy Vạn Hạnh còn xử dụng tuyệt diệu hơn trong việc tạo dựng nên một Lý Công Uẩn, sau nầy trở thành một vị minh quân, một vĩ nhân của Dân Tộc. Vạn Hạnh chuẩn bị khai thị nhân tâm, vận động lòng dân bằng sấm truyền một cách siêu dị. Sách Đại Việt Sử Ký ghi lại rằng Trong thời Lê Phong Đỉnh sét đã đánh lên cây gạo ở chùa Minh Châu, làng Cổ Pháp do Thiền Sư La Quí An trồng năm 936 in thành chữ như sau Thọ căn diễu diễu – Mộc biểu thanh thanh Hoa đào mộc lạc – Thập bát tử thành Đông A nhập địa – Dị mộc tái sanh Chấn cung kiến nhật – Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian – Thiên hạ thái bình Gốc cây thăm thẳm – Ngọn cây xanh xanh Cây hoa đào rụng – Mười tám hạt thành Cành đông xuống đất – Cành khác lại sanh Đông mặt trời mọc – Tây sao ẩn hình Sáu bảy năm nữa – Thiên hạ thái bình. Sách Đại Việt Sử Ký viết tiếp rằng “Nhà sư Vạn Hạnh tự đoán riêng rằng, trong câu thọ căn diễu diễu chữ căn là gốc, gốc tức là vua, chữ diễu đồng âm với chữ yểu, thế là nhà vua Lê Long Đỉnh chết yểu. Trong câu mộc biểu thanh thanh chữ biểu là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ thanh đồng âm với chữ thịnh, thế là một người trong số quần thần Lý Công Uẩn sẽ lên nắm chính quyền. Ba chữ hoa đào góp lại theo Hán tự là chữ Lê, lạc là rớt, tức là nhà Lê rớt. Ba chữ thập bát tử góp lại là chữ Lý, thập bát tử thành tức là nhà Lý lên. Câu đông A nhập địa chữ đông và chữ a họp lại là chữ Trần, nhập địa là người phương Bắc vào cướp. Câu dị mộc tái sanh tức là họ Lê khác Lê Lợi lại nổi lên. Trong câu chấn cung kiến nhật thì chấn là phương Đông, kiến là mọc ra, nhật là thiên tử, thiên tử xuất hiện ở phương Đông. Trong câu đoài cung ẩn tinh thì đoài là phương Tây, ẩn là lặn tinh là người tầm thường, người tầm thường mai một ở phương Tây. Mấy câu này có ý nói vua thì non yểu tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trong vòng sáu bảy năm nữa thì thiên hạ thái bình.” Qua lời sấm nầy, không những Vạn Hạnh tiên đoán ở thời kỳ nầy mà còn suốt cả sinh mệnh của Dân Tộc từ thời Tiền Lê ở thế kỷ thứ 11, đến nhà Lý ở thế kỷ 11, 12, đến nhà Trần ở thế kỷ 13, 14 và cuối là nhà Hậu Lê ở thế kỷ 15 và 16. Quả thật con người Vạn Hạnh quá vĩ đại thông suốt sự thành hợp, tan hoại, cả mấy thế kỷ. Thời Tiền Lê vị anh hùng cứu quốc Lê Hoàn và là minh quân Lê Đại Hành đã từng đánh tan quân xâm lăng nhà Tống vào năm 980. Ông mất vào năm 1005. Khi vừa nằm xuống các con tranh giành ngôi vua Lê Phong Việt mới làm vua được 3 ngày thì bị em là Lê Long Đỉnh giết chết. Lê Long Đỉnh còn gọi là Lê Ngọa Triều, một ông vua tàn ác hoang dâm vô độ. Khiến cho nhân dân ly tán, lòng người phẫn nộ căm hờn, cơ hội cho sự xâm lăng của quân Tàu, có thể đưa dân tộc rơi vào kiếp nô lệ. Trước những biến động nguy ngập của thời đại, sự xuất hiện của Vạn Hạnh như một vị cứu tinh vĩ đại cho Dân Tộc, Vạn Hạnh là linh hồn của công cuộc cách mạng đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Ngài đã đào tạo Lý Công Uẩn ngay từ lúc còn làm chú tiểu ở chùa làng Cổ Pháp, để sau nầy trở thành một vị vua anh minh làm tròn sứ mạng cao cả cho Dân Tộc. Nhờ sự giáo dục tài tình của Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã huân tập được tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ trong Phật Giáo, đặt sự tồn tại của Dân Tộc lên trên, xây dựng một xã hội nhân bản, hưng thịnh, an lạc. Sử gia Hoàng Xuân Hãn viết “Triều đại nhà Lý là Triều đại thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo”. Điều nầy cũng đủ cho ta thấy rằng đóng góp của Vạn Hạnh vô cùng vĩ đại, sự nghiệp phi thường nầy chắc hẳn chúng ta không bao giờ quên được. Khía cạnh tâm lý nào đã tạo nên những Thiền Sư dấn thân vào công nghiệp chính trị. Trước hết những vị là người có học thức, uyên bác, có ý thức vì sự hưng vi của quốc gia, là những người sống trực tiếp với quần chúng nên hiểu rõ về đời sống cũng như khía cạnh tâm lý trong mỗi người. Nên những Thiền Sư đem khả năng của mình để phục vụ cho nhân dân bằng cách biến những ưu tư của họ trở nên niềm vui an lạc. Dấn thân vào chính sự là cách hay nhất để có thể cải tổ và xoay chuyển được vận mạng của dân tộc hữu hiệu. Cần nhất, tạo được ý thức Dân Tộc tính trong sự trị vì của Vua hay những người trực tiếp cai trị dân từ đó mới đem lại sự thanh bình cho người dân. Đồng thời những Thiền Sư coi thường công danh phú quí lợi lộc, nên không bao giờ tranh giành quyền lợi, các vị chỉ đứng trên cương vị cố vấn tham dự vào chính sự, chứ không dính đến chính quyền, nên ngôi chùa là nơi cư trú, cơm rau đạm bạc vẫn là thức ăn hàng ngày. Quí vị đi vào cuộc đời, tham dự chính sự trong cương vị xuất thế của mình, không muốn hòa mình trong vòng ràng buộc danh lợi, hành nhưng vô hành. Ngày mà Lý Công Uẩn lên ngôi vua, Vạn Hạnh ung dung ngồi ở Chùa Lục Tổ, bên cạnh chén trà, mỉm cười với chính mình, một nụ cười chìm lặng trong hư vô, chỉ có hư không mới cảm nhận thâm sâu được nụ cười nầy. Vạn Hạnh đâu cần thiên hạ tung hô, dù rằng Vạn Hạnh lãnh đạo và phát huy kế hoạch vi diệu trong việc tạo dựng nên nhà Lý. Cái ung dung thanh thoát của những con người không hề vướng bận, làm thì có làm, vì chúng sanh nên phải dấn thân, nhưng không vì thế hoen ố được tâm linh của mình. Chúng ta phải cúi đầu qui ngưỡng trước những con người siêu dị nầy. III. NGƯỜI TẠO DỰNG NỀN TRIẾT LÝ ĐẶC THÙ CHO DÂN TỘC Đứng trước vực thẳm của Dân Tộc đang bị lôi cuốn vào những trào lưu văn hóa của ngoại lai, phi dân tộc, do sự đồng hóa thống trị đô hộ của đế quốc Trung Hoa biến Dân Tộc rơi vào sự khống chế, khắc nghiệt, tàn bạo về mọi phương diện. Và thâm độc hơn để đồng hóa người dân đến tận gốc rễ. Trung Hoa đã ồ ạt chuyên chở hệ thống tư tưởng của họ, để áp đảo, phủ lên đầu dân, biến dân tộc ta mất gốc trở thành kẻ nô lệ, tôn thờ họ như một thứ thần thánh. Chúng ta không thèm đề cập đến những tay ngoại lai, những kẻ mất gốc, nô lệ văn hóa Tàu, Đế quốc đã đô hộ, đày đọa dân ta cả ngàn năm qua, để rồi có một số tay sai văn hóa trở lại tôn thờ. Một đế quốc đã tàn phá tất cả những di sản của Dân Tộc thay vào đó một trào lưu văn hóa xâm lăng tiêu diệt, có một số người trở lại lạy lục cho là độc đáo. Đứng trước thảm trạng bi hùng đó, Vạn Hạnh ý thức mãnh liệt về Dân Tộc tính, tạo dựng nên một nền tâm linh đặc thù cho Dân Tộc, tổng hợp những trào lưu văn hóa, thay vào đó mang một đặc thể hoàn toàn Dân Tộc. Nước Việt ở vào thời bấy giờ là nơi gặp gỡ nhiều trào lưu văn hóa và tín ngưỡng khác nhau. Nào văn hóa “Động Cổ” Đông Sơn Văn Hóa Cổ Mộ Lạch Trường văn hóa Hán nho, Phật học Trước những dị biệt đó, muốn trưởng thành chắc chắn phải hóa giải những mâu thuẫn, thanh lọc lại và tạo nên một trào lưu văn hóa khác không chấp nhận lệ thuộc hẳn vào một văn hóa nào cả. Vạn Hạnh vốn đã trải qua những xung đột trong nội tại, vì thế Ngài đã phải dùng đến phủ định không của Bách Luận để hóa giải những khúc mắc quan trọng nơi tâm thức. Dĩ nhiên không, lại không có nghĩa phủ nhận hoàn toàn sự có mặt của danh sắc, mà phải hiểu rằng, sự có mặt ấy chỉ là một giả thể, huyễn hóa không thật. Hẳn nhiên có thể mặt trái của phủ định vẫn là khẳng định, bởi lẽ khi phủ định một định nghĩa tức là phải thành lập một định nghĩa khác, dù không rõ nét lắm vẫn có sự trá hình nào đó, để từ đó mới có thể lật đổ được điều ấy. Dùng một lập luận nầy để phá đi một lập luận khác. Trên bình diện tương đối thì vấn đề nầy không phức tạp như vậy. Nguyên tố cơ bản mà Vạn Hạnh đã dùng là phủ định mọi tư tưởng, cũng có thể ngay cả cái tư tưởng mà Vạn Hạnh đang dùng để phá đó nữa. Sau khi đạt được sự vắng lặng hoàn toàn cho tâm thức ngài mới bắt đầu đặt lại sự có mặt của nó. Thực hiện điều này, trước hết ta thấy ngài trung thực và không lệ thuộc vào một khuynh hướng nào trong việc đặt lại, như vậy cái nhìn mới không bị kéo lệch về một điểm. Một khi Vạn Hạnh đã đạp tung thì tất cả đều phải đổ ào, dù cái đó điều mà ngài phải nương vào mới đạt được. Tinh thần không trụ chấp vào danh tướng giả sắc trong Bách Luận, cũng có nghĩa là ngay cả Bách Luận cũng không được trụ. Cái phóng khoáng và tự do tuyệt đối trong Phật giáo là ở chỗ đó, thong dong tự tại trên mọi đỉnh đồi, nở những nụ cười chấn động làm lạnh cả hư không, không gò ép ở mọi định thước nào. Sau khi Vạn Hạnh đã thẩm định lại một cách rõ ràng bằng con đường trực giác kiến tánh, siêu việt lên trên mọi hiện tượng, thực nghiệm những tương quan bằng con mắt trí tuệ sáng soi. Chỉ có điều nầy mới không tạo nên những xung khắc trong việc quân bình, bởi vì nó hình thành từ một siêu thể, siêu thức, vượt ra ngoài tri thức bình thường, làm sao có thể ngăn ngại được hướng đi của nó. Những tổng hợp tư tưởng của Vạn Hạnh còn đi xa hơn Khổng Tử tìm ra cái “Đạo Nhất Quán” vì Khổng Tử chỉ dùng có suy tư và học tập – mà không qua chặng đường thực nghiệm – siêu thể như Vạn Hạnh. Và chặng đường để Vạn Hạnh thực hiện được còn gay cấn và độc đáo hơn nhiều. Không những không bị đồng hóa lệ thuộc, mà còn vượt lên trên rực rỡ nữa. Vạn Hạnh người đã dựng nên một nền Minh Triết Việt Đạo độc đáo cho Dân Việt, đánh tan đi ảnh hưởng của ngoại lai. Theo sử gia Lê Văn Siêu, thiền sư Vạn Hạnh người đã sáng tạo ra và cho lưu truyền trong nhân gian huyền thoại rồng tiên và nguồn gốc họ Hồng Bàng, còn là Việt Đạo. sử gia Lê Văn Siêu viết “Qua câu chuyện huyền thoại về nguồn gốc Dân Tộc, ta thấy ở đấy cũng một mùi đạo hạnh uyên thâm cũng một giọng kín đáo mà thuần phác, cũng một ý răn dậy luân lý để nghiền ngẫm cho từ vua quan đến thứ dân, cũng một tinh thần xây dựng về lâu đài cho muôn thuở, cũng một trình độ lĩnh hội và tổng hợp của cả ba đạo Nho, Phật, Lão, và cũng một ý thức sáng tạo lớn là để phụng sự cho tiến phát của mối đạo và của Dân Tộc. Còn ai có thể ngờ được rằng tác giả thành Thăng Long lại không phải là tác giả của nguồn gốc họ Hồng Bàng ? Tuy nhiên trong quan niệm nguồn gốc họ Hồng Bàng ta còn nhận thấy một dụng ý chính trị cao siêu là gây cho Dân Tộc niềm kiêu hãnh về nguồn gốc của mình, phá bỏ mặc cảm tự ti đối với Trung Hoa. Người Tàu nói có nguồn gốc từ Tam Hoàng, Ngũ Đế thì đây ta cũng có gốc gác từ vua Thần Nông, cha đẻ của nền văn minh nông nghiệp. Người Tàu nói giòng dõi của họ là con rồng thuần dương thì ta giòng dõi Rồng Tiên vừa âm vừa dương chẳng cao siêu hơn và tròn đầy hơn sao? Họ khoe bà Nữ Oa của họ đội đá vá trời và Bàn Cổ sinh ra từ khai thiên lập địa, thế họ không biết rằng ý thức của ta đã có như con chim bay giữa không gian là cái nhà lớn và thời gian là con sông chiết tự ở hai chữ Hồng Bàng ra hay sao ? Thiền Sư Vạn Hạnh, Thiền Sư Vạn Hạnh ! Người ấy thì phải có công nghiệp nầy, mà công nghiệp này thì nhất định là chỉ có người ấy mới làm nổi. Trận đánh quân Nam Hán của Ngô Quyền ở Bạch Đằng giang chỉ là một chiến công gieo ảnh hưởng trong một thời gian ngắn để sau phải có những trận đánh khác của Trần Quốc Tuấn, của Lê Lợi và của Nguyễn Huệ. Nhưng trận đánh về văn hóa của Sư Vạn Hạnh thì đã là một trận đại thắng gieo ảnh hưởng cho muôn đời về sau nầy của con cháu rồng tiên. Sư Vạn Hạnh đã dàn một mặt trận văn hóa bao la trong cả không gian lẫn thời gian, khiến cho không một tư trào văn hóa ngoại lai nào có thể làm cho dân Việt quên quay đầu trở về gốc tổ. Huyền thoại Hồng Bàng chỉ là một câu chuyện tưởng tượng để diễn đạt và truyền đi cái đạo sống Việt Nam. Cái đạo ấy tuy thoát thai ở Nho, Phật, Lão… Nó đã nhuốm một màu sắc Việt Nam. Nó đã được un đúc nên qua một cuộc thử thách lịch sử dài tới hơn một ngàn năm. Nó có một nội dung tròn đầy, phóng khoáng và siêu thoát nhưng cũng thiết thực, cụ thể, bình dân. Nó khoác một hình thái biến hóa khôn lường, hư hư, thực thực. Nó vô vi mà là hữu vi, hữu vi mà là vô vi, tranh đấu tích cực mà như là tiêu cực, tiêu cực mà thật là tích cực. Không phải là chiến để thắng mà là hòa để thắng, không phải thắng trong một ngày, một buổi, mà là thắng cho muôn đời về sau. Đạo ấy đã ăn sâu, đã thấm nhuần trong lòng người lòng sông núi, trong tâm thức và phong thái Việt Nam và chính trong những lúc nguy ngập, trong những cơn quốc nạn, trong những giai đoạn máu lửa, trong những cuộc thử thách mất còn mà cái đạo nhiệm mầu, siêu việt, tròn đầy ấy lại hiện ra sáng đẹp như chưa bao giờ sáng đẹp hơn và linh diệu không thể nào lường được. Cái đạo ấy thể hiện gói trọn trong huyền thoại Tiên Rồng và huyền thoại Hồng Bàng xứng đáng được gọi là đạo Tiên Rồng đạo Hồng Bàng hay Việt Đạo.” IV. THÀNH THĂNG LONG, CÔNG TRÌNH SUY TƯ VÀ KIẾN TRÚC CỦA VẠN HẠNH. Kinh thành Thăng Long là một tác phẩm vĩ đại dung chứa và biểu tượng của một tổng hợp Triết Lý độc đáo mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã suy tư và dựng nên. Nó đặc trưng, thể hiện mọi phương diện từ Văn Hóa, Nghệ Thuật, Triết Lý, Chính Trị đâu đó đều in bóng dáng hùng vĩ của Vạn Hạnh, dù thời gian đã rêu phong, nhưng dấu chân người đã in đậm trên từng đường nét. Vạn Hạnh thuyết phục vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La sau đổi là Thăng Long với mục đích bảo vệ nền độc lập lâu dài cho Dân Tộc. Vạn Hạnh thảo ra lời chiếu dời đô, theo lời chiếu, đất Hoa Lư là nơi “thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, vạn vật không nên”. Trong khi đó đất Đại La “ở giữa khu vực trời đất, có địa thế rồng quấn hổ phục, ở giữa Nam, Bắc, Đông, Tây, tiện hình thể núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất thịnh và phồn vinh !” Bằng vào những tiên đoán và nhận định một cách siêu việt, ta thấy Vạn Hạnh ý thức mãnh liệt về sự hưng thịnh lâu bền của Dân Tộc. Ta có thể thấy được nền tảng vững chải từ những biểu tượng, đặc trưng, thể hiện về mọi lãnh vực Văn Học, Chính Trị, An Ninh, quốc phòng, thương mãi, đô thị, với lối suy tư độc dị của Vạn Hạnh áp dụng trong kiến trúc, không ai dám phủ nhận công nghiệp vĩ đại nầy, nếu không phải cúi đầu trước những mênh mang kỳ vĩ của sự hợp nhất trong ngoài. Trong Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam, tác giả Lê Văn Siêu đề cập đến công trình kiến trúc thành Thăng Long của Vạn Hạnh như sau “Ta hãy xem cái đường vòng chạy chung quanh nội thành biểu tượng cho thái cực, hai nhánh sông Tô Lịch bên hữu có hồ Lãng Bạc là úng thủy, bên tả thông ra đường Lưu Thủy là sông Nhị Hà, đó là biểu tượng cho Lưỡng Nghi. Cung điện của vua ở giữa có bốn mặt đều nhau ấy là tứ tượng. Thêm bốn kiến trúc bốn cổng ấy là bát quái. Tất cả các đường đều bắt đầu từ vòng thái cực mà đi chi chít không biết bao nhiêu, ấy là biến hóa vô cùng vậy. Nhìn vào thế địa lý của Thành Thăng Long thì ta thấy cách sắp đặt qui mô của người xưa rộng rãi và sáng suốt không thể nào tưởng tượng nổi. Nội thành đặt đúng trên núi Nùng, sau lưng là cái não thủy Tây Hồ, bên tả là Tam Đảo, bên hữu là Ba Vì, Tây Hồ bên hữu thuộc âm, bắt đầu bằng chùa Bát Mẫu chạy vòng tới dãy núi Ninh Bình, Thanh Hóa và ra đến cửa bể Thần Phù. Tây Long bên tả thuộc dương, bắt đầu bằng cửa ô Tam Phù Yên Phụ để chạy tới dãy núi Yên Tử – Đông Triều và Hương Hải tức Hòn Gay bây giờ. Trong nội thành cung điện sắp đặt theo đúng tám hướng kiền, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài, ấy là cái thể dữ tứ thời hợp kỳ tự cùng bốn mùa giao hợp mà sắp đặt trật tự dữ quỷ thần hợp kỳ linh cùng quỉ thần giao hợp mà linh thiêng. Chấn và Đoài nghĩa là Đông và Tây là dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh cùng với mặt trời mặt trăng hòa hợp mà cùng sáng. Khôn và Kiền Tây Nam và Tây Bắc là dữ thiên địa hợp kỳ đức cùng với trời đất hợp cái đức của mình Mỗi hướng có một ý nghĩa và ở mỗi hướng lại có một sự xây dựng theo ý nghĩa đó. Kiền ở Tây Bắc dĩ quân chi chú vào việc quân phải cứng rắn cương quyết thì có Giảng Võ Đường, có chùa Trấn Bắc, chùa Trấn Vũ có miếu Thành Hoàng, làng Hữu Tiệp có tin thắng trận thì về báo. Đối với Kiền và Tốn ở Đông Nam Tốn dĩ thuận chi chủ vào việc Thuận Hảo phải mềm dẻo thì có Văn Miếu, Trường Thi, Quốc Tử Giám, làng Văn Chương, chùa Long Hoa. Khảm ở chính Bắc dĩ hãm chi, chủ dùng mưu mẹo thì có não thủy Tây Hồ. Đối với Khảm là Ly ở chính Nam ly dĩ lệ chi, chủ sự sáng suốt, đẹp đẽ thì có Ô Kim Liên, làng Kim Liên bông sen vàng rực rỡ. Khôn ở Tây Nam dĩ tái chi, chủ lấy sự chịu đựng kiên nhẫn để thủ thắng thì có làng Thịnh Hào. Đối với Khôn là Cấn ở Đông Bắc Cấn dĩ chỉ chi là việc nên ngưng thì phải ngưng lại ngay chớ tham thì có làng Nhật Tảo, Quảng Bá. Đoài ở chính Tây dĩ nguyệt chi, lấy mềm dẻo làm cho bằng lòng và chịu theo thì có chùa Nhật Trụ bông sen trong đạo Phật Đối với Đoài là Chấn ở chính Đông Chấn dĩ cổ chi, lo việc cổ động thì có chùa Thạch Cổ cái trống bằng đá Kiến trúc sư Vạn Hạnh lấy đạo lý làm nguyên tắc xây dựng kinh thành đã nhìn bao quát được đến thế thì ta phải công nhận công việc kiến thiết của người là một tác phẩm vĩ đại. Tác giả cụ thể hóa Triết Lý Tam Giáo Nho, Phật, Lão và kiến trúc kinh thành để nhắc nhở nhà cầm quyền hãy lấy đạo trời mà trị nước và quyết định tất cả hành động của vua quân từ tiềm thức.” Tổng quát cơ cấu kiến trúc kinh thành Thăng Long đã làm nổi bật lên lối kiến trúc tài tình siêu độc, một người kiến trúc sư dù tài ba cũng không làm nổi như Vạn Hạnh, ở đó chứa đựng cả nền triết lý tổng hợp đặc thù của Việt Nam mà Vạn Hạnh khai sinh và huân dưỡng cho hậu thế. Ta thấy Vạn Hạnh xử dụng Dịch lý của Nho giáo như là một kỹ thuật để phát huy và làm rõ nét, thể hiện giá trị siêu thể đặc thù của một chủ lực, đó là ý lực của nền Minh Triết Việt Phật. Sự có mặt của những ngôi chùa trong đồ án kinh thành nầy, thể hiện mặt tư tưởng, nghệ thuật, như là một biểu hiện sáng ngời của Dân Việt, dùng ánh sáng tuyệt luân của Phật giáo hành hoạt cho mỗi tâm thức. Cái đa dạng và siêu thể trong tư tưởng Phật giáo, nổi bật hơn hết trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của nhân loại. Và càng đa dạng hơn nữa khi Vạn Hạnh xử dụng trong lãnh vực chuyển hóa thực tại bằng phương thức nhập thế, cải tổ con người, tạo dựng một xã hội huy hoàng bằng chính cái tâm. Nếu chúng ta ngồi ngắm nhìn thật sự công trình vĩ đại của Vạn Hạnh, không ai trong chúng ta là không khiếp đảm cúi đầu trước một con người quá hùng vĩ. Chỉ một Thiền Sư mà đã có được công nghiệp lẫy lừng giá trị cho muôn đời, nhờ thông đạt cái linh năng kỳ bí trong mỗi con người, hiển rõ lên cái tâm tương quan giữa đất trời, thâm sâu và mênh mang như hư không lồng lộng, rực rỡ như ánh sáng phi thường chiếu thẳng xuống vực sâu ngàn năm phong kín bởi bóng tối dày đặc. Vạn Hạnh con người vĩ đại, tuyệt luân, cả ngàn năm trước và sau chưa một ai có thể sánh bằng, giá trị tuyệt vời mà ngài đã để lại muôn đời tồn tại với núi sông, như lòng ngài đã gởi gấm từ thuở ban đầu với thủy chung vô tận. V. TƯ TƯỞNG THIỀN CỦA VẠN HẠNH Vạn Hạnh khơi dậy chặng đường giác ngộ thực chứng qua cửa ngõ của Bách Luận và Tam Ma Địa. Bách Luận chứa đựng toàn bộ tư tưởng thâm sâu của đại thừa, đó là một thứ khí giới sắc bén và vô cùng tối hậu trong việc đạp đổ những thành trì suy luận của trí thức, đập phá đến tận cùng những gì ngăn ngại, để làm hiển lộ nên cái tánh không tròn đầy. Cả cuộc đời của Vạn Hạnh ta thấy phảng phất phong thái của Thiền Sư vượt thoát ra ngoài tử sinh, điểm nổi bật nhất là Vạn Hạnh ứng dụng thiền trong những công cuộc hưng phục giá trị văn học và nghệ thuật cũng như trị quốc một cách siêu việt. Ảnh hưởng nầy không những chỉ có giá trị ở một thời điểm mà còn mãi mãi cho cả một sinh mệnh của Dân Tộc. Dù rằng Vạn Hạnh không đăng đài thuyết pháp độ sinh, nhưng cuộc đời của Ngài đã là một bài thuyết pháp sống động và hiệu năng thâm sâu nhất. Chỉ có những cung cách nầy mới chuyển hoán lâu đời và chỉ có những cung bậc tương xứng mới bắt gặp ngôn ngữ im lặng nầy. Nó có giá trị ở những tâm linh có được sự thường nghiệm tra vấn với tự tâm may ra mới thấu hiểu được ngữ ngôn vô hành nầy. Tư tưởng Thiền của Vạn Hạnh không thể dùng suy đoán của tri thức mà có thể vén mở được, bởi lẽ ngài chưa một lần hé mở cánh cửa tâm linh, đâu đó được bao bọc bên ngoài bằng những hoạt động tích cực trong mọi lãnh vực, mà chỉ có khả năng của một Thiền Sư trác việt mới làm nổi. Đến với ngài là phải đến với những thành quả như là một biểu tượng không lời mà Vạn Hạnh đã dựng nên. Thường nghiệm mãnh liệt thì cánh cửa nầy sẽ mở tung, như bầu trời cao in đậm hình hài của Vạn Hạnh. Niên hiệu Thuận Thiên thứ 9 1018 ngày rằm tháng 5 Sư viên tịch đi vào nơi vĩnh cửu. Vạn Hạnh đến đi trong cuộc đời, như một thăm hỏi, dừng lại để chuẩn bị cho một hành trình phụng sự chúng sanh khác. Sự có mặt của Vạn Hạnh là làm sống lại sinh mệnh của dân tộc, và tiếp nối để đạt được thành công, những hoài bão của lớp Thiền Sư trước chưa thực hiện được. Vạn Hạnh đã tổng hợp và thắp sáng ngọn đuốc bùng tỏa ánh lửa soi sáng cho non sông trong suốt lịch trình tiến hóa. Dù rằng Ngài đã vào nơi yên nghỉ, nhưng đâu đó vẫn còn những lời nhắn nhủ chứa đựng trong hư không, âm ỉ trong lòng người, và thấp thoáng đâu đây bước chân của người đi theo với vận mạng muôn đời của đất nước. Ngài đã từng đưa dân tộc thoát ra khỏi một khúc quanh vĩ đại, lẽ nào bây giờ không một lần vì đại nguyện ngài không nỡ dấn thân nữa sao? Đất nước bây giờ đang ở trong hoàn cảnh bị thương, tương tợ như 1000 năm Bắc Thuộc bị đô hộ bởi người Tàu. Vận nước nghiêng ngửa, điêu linh, dân tộc khốn cùng. Dấu chân của ngài vẫn còn phảng phất đâu đây xin một lần ngài lộ diện cứu nguy dân tộc. Bài kệ của Vạn Hạnh để lại Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thạnh suy vô bố uy Thạnh suy như lộ thảo đầu phô. Dịch Thân như bóng chớp chiều tà Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời Sá chi suy thạnh việc đời Thạnh suy như hạt sương sa đầu cành. Nói xong, Sư lại bảo chúng “Các người cần trụ chỗ nào?” Ta chẳng lấy chỗ trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ.” Qua bài kệ trên ta thấy được cái thực chứng siêu nghiệm về cuộc đời, trong đó mọi vật đều biến đổi, thân phận con người tựa như bóng chớp có đó rồi không, chỉ là giả hợp vay mượn tứ đại mà hình thành, một giờ khắc đi qua là cũ, sự tàn tạ đang quấy động. Những gì được gọi là thạnh hay suy cũng vô nghĩa như thân phận con người vô nghĩa trước ngưỡng cửa tử sinh. Sự hưng thạnh vốn đã ngầm chứa và ẩn bóng dáng suy vi trong đó, bởi lẽ đó không phải là thực thể thoát ra ngoài chi phối của thời không. Vạn Hạnh cho chúng ta thấy rằng phải đối diện với nó trong nụ cười hùng tráng đừng bao giờ sợ hãi. Vì tự nó vốn là giọt sương ở đầu cành, chỉ cần cơn gió nhẹ thoáng qua sẽ vỡ ngay như thân phận ngàn đời mà nó đã khoác vào. Đối diện và không sợ hãi là cương lĩnh tối hậu trong việc quật tung để khám phá bóng dáng thật của tương quan. Một Vạn Hạnh độc nhất trong lịch sử Dân Tộc cũng từ những nguyên tố đối diện và không sợ hãi nầy mà thành tựu được sự nghiệp. Nếu sự trực diện và vô úy đó phù hợp với chân lý, không trở ngại cho hạnh nguyện độ sanh, thì chắc hẳn không màng đến sự dấn thân dù phải hy sinh tánh mạng cho đại cuộc. Vạn Hạnh đã vượt ra và đi trên cõi sống chết như là chặng đường đến đi không vướng gót. Ngài thể nhập thâm sâu tinh yếu của Thiền, không trụ vào bất cứ ở đâu, trong hay ngoài, niết bàn hay tử sinh, nơi nào cũng phớt qua, như gió thoảng mây bay. Chẳng những Vạn Hạnh không trụ vào đâu cả mà ngay cái không đó cũng không bao giờ ta thấy có bóng dáng của Ngài, tất cả cũng chỉ là diệu dụng linh hoạt, hành nhưng vô hành, tâm không y trước vào huyễn tướng, không đắm chìm trong danh sắc, nên cuộc đời của những con người siêu dị nầy thong dong tự tại. Nơi nào lại không phải là quốc độ của các ngài? Không trụ vào bất cứ nơi đâu, bởi lẽ không có chỗ nào cần thiết để trụ, ngay cả cái không đó nữa. Nếu không khéo xử dụng cửa ngõ nầy ta lại rơi vào cái không khác bao bọc. Nó là vậy đó, sự có mặt nào nếu đặt lại cũng đều trở nên phức tạp và nghịch lý, nhưng phức tạp và nghịch lý cũng chưa hẳn là then chốt cột chặt ta trong ấy. Cần nhất là vượt lên trên những mâu thuẫn không bám vào đâu. Vạn Hạnh thoát ly ra khỏi triều chính cũng từ những nguyên lý này, sự có mặt của ngài trong công cuộc xây dựng dân tộc, đâu đó được thịnh vượng ngài lại trở về với cái ban đầu mà ngài đã đến là cái không trụ. Vạn Hạnh thanh thoát và rỗng không như một lần cuối cùng trong cuộc đời bình thản với những vần kệ giá trị cho muôn đời. Vua Lý Nhân Tông kết luận cuộc đời của Vạn Hạnh như sau Vạn Hạnh dung tam tuế Chân phù cổ sấm thi Hương quan danh cổ pháp Trụ tích chấn vương kỳ Nghĩa là Thiền Sư Vạn Hạnh hợp nhất được ba cõi, quá khứ, hiện tại, vị lai Đúng với tinh thần tiên tri thời cổ xưa Quê hương danh tiếng là Cổ Pháp kinh đô Phật giáo Việt Nam tối xưa Thiền Sư đem gậy Thiền Học bảo vệ cho lãnh thổ quốc gia. Lời thơ truy tán của vua Lý Nhân Tông cũng đủ để kết luận một con người phi thường nhất trong lịch sử Dân Tộc. Tags Phật giáo, Nhà Lý, Danh nhân Việt Nam, Nhà Tiền Lê, Vạn Hạnh

tiểu sử thiền sư vạn hạnh